Jackhammer Nguyễn
26-1-2020
Từ ngữ…
Đã khá lâu, trên các mặt báo chính thống của Đảng Cộng sản Việt Nam người ta ít nghe đến cụm từ… “chuyên chính vô sản”. Điều này có thể được giải thích rằng Đảng muốn có một bộ mặt bên ngoài … hiếu hòa, thân thiện, vì sau vài chục năm hiểu sai, hay chẳng hiểu gì cả. Người Việt bây giờ cũng hiểu rằng “chuyên chính” là độc tài chứ không là gì khác.
Ông Phạm Quí Thọ, một cựu viên chức nhà nước hiện đang sống ở Hà Nội, đào xới lại khái niệm đó trong bài ông viết đăng trên trang BBC Việt ngữ: Chuyên chế khiến Đảng CSVN nỗ lực nhưng ‘cứ cải tiến lại cải lùi’?
Các bài viết của ông Phạm Quí Thọ là những bài tôi rất thích đọc vì được viết bởi một người bên trong hệ thống, có cái nhìn tiệm tiến về quá trình dân chủ hóa. Bài của ông đôi khi có những nét hơi nghịch nhau. Một mặt, ông nêu rất đúng bản chất vấn đề, mặt khác vấn đề của ông nêu ra lại không được diễn giải toàn vẹn.
Trong bài mới nhất mà tôi đề cập ở trên, ông nêu đúng bản chất của chế độ là chuyên chế. Đây là một nhận thức rất quan trọng, vì nó vượt ra uyển ngữ của Đảng Cộng sản là chuyên chính.
Cái từ chuyên chính nó mang một bộ mặt hiền hòa mà Đảng Cộng sản ngụy tạo trong từ ngữ, tuyên truyền, cách ăn cách nói, cách tổ chức của họ. Trong khi đó từ chuyên chế mang nghĩa rất rõ ràng, chỉ một cái xấu.
… và bản chất
Nếu tôi hiểu đúng bài viết thì ông Phạm Quý Thọ muốn nói rằng từ năm 2016 đến nay, tính chuyên chế của Đảng Cộng sản tăng lên nhằm hai mục đích: Chống tham nhũng và đàn áp xã hội dân sự.
Việc đàn áp xã hội dân sự vì lo ngại rằng nó làm mất quyền lực của Đảng là một điều rất rõ ràng, chúng ta đã bàn rất nhiều, trên diễn đàn này cũng như nhiều diễn đàn khác.
Điều ông Phạm Quí Thọ đưa ra về phát triển kinh tế trong ba năm qua nhưng không tạo niềm tin về phát triển bền vững và chất lượng của sự phát triển, lại không thấy ông phân tích là nó có liên quan đến chuyên chế hay không. Có phải ông Thọ muốn nói sự chuyên chế sẽ làm sợ hãi các nhà đầu tư? Hay là các vụ án kinh tế bị hình sự hóa vì mục đích chính trị (phe phái ẩu đả nhau)?
Tác giả cũng đề cập tới một cụm từ xuất hiện khoảng chục năm gần đây trên báo chí Việt Nam, trong các diễn từ của Đảng là: Nhóm lợi ích. Nhưng tác giả, có lẽ do khuôn khổ bài viết, không phân tích thấu đáo chuyện này.
Tôi thì thấy rằng, nhóm lợi ích là một chuyện bình thường trong một xã hội bình thường, vì con người có lợi ích khác nhau, hay tập hợp lại với những người cùng lợi ích với mình nhằm tranh đấu cho lợi ích đó. Nếu nhóm lợi ích là một từ mang nghĩa xấu ở Việt Nam hiện nay, thì nói thẳng ra, là nó chỉ các phe phái trục lợi trong Đảng đấu đá với nhau. Xin đừng cưỡng đoạt ngôn ngữ Việt Nam bình thường, rất tội nghiệp.
Trong một xã hội dân chủ và minh bạch, các nhóm lợi ích lập tổ chức, đảng phái để cạnh tranh với nhau, dưới sự giám sát của cơ quan tư pháp độc lập. Điều đó không có trong xã hội chuyên chế độc tài, từ đó các lợi ích chuyển sang dạng đấu đá để trục lợi, trục lợi tối đa có thể.
Cái gốc của vấn đề chuyên chế
Trong phần cuối của bài viết, ông Phạm Quí Thọ nêu ra hai điểm mà tôi rất đồng ý: chuyên chế có thể làm dân chúng căm thù nhà cầm quyền (chuyện Đồng Tâm), còn bọn trục lợi trong bộ máy cầm quyền thì giấu mình chờ thời.
Câu hỏi ông Thọ đặt ra cho Đảng Cộng sản là liệu Đảng có thể lãnh đạo kinh tế thị trường với hai hệ tư tưởng có bản chất trái ngược nhau. Đảng Cộng sản chắc chắn sẽ trả lời rằng: Được chứ! Chẳng phải là họ đã đề ra …kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đấy sao. Vấn đề nằm ở chỗ khác, ở chỗ là họ độc quyền lãnh đạo!
Tới đây chúng ta thấy được nguyên nhân của vấn đề mà ông Thọ nêu ra là, kinh tế phát triển nhưng không có chất lượng. Có chất lượng làm sao được khi có chỉ một đảng lãnh đạo? Vì các phe nhóm sẽ trục lợi nhân danh bất cứ cái gì có thể, không có tòa án để xử những hành động sai trái, thì làm sao mà phát triển có chất lượng cho được.
Tôi nghĩ rằng tác giả Phạm Quí Thọ hoàn toàn hiểu vấn đề đó nhưng vì lý do nào đấy nên ông không nêu ra. Nhưng có một chi tiết ông đã hàm ý rất nhiều nếu độc giả chú ý, đó là câu ông bình luận về vụ Đồng Tâm rằng: Lời kêu gọi Bộ chính trị (của Đảng Cộng sản) vào cuộc là một sự ngộ nhận đáng thương.
Sự chuyên chế của Đảng Cộng sản không bao giờ thay đổi, nó muốn độc quyền lãnh đạo và hưởng thụ. Nó vẫn là chuyên chế thời “chống tham nhũng” hiện nay, nhưng nó vẫn là chuyên chế khi tham nhũng lúc trước. Và mục đích cuối cùng của chuyên chế (hay chuyên chính nói cho đẹp hơn) là gì? Là tham nhũng chứ là gì nữa!
Jackhammer Nguyễn, từ San Francisco
Chuyên chế khiến Đảng CSVN nỗ lực nhưng ‘cứ cải tiến lại cải lùi’?
Sau Đại hội 12 của Đảng Cộng sản Việt Nam, nỗ lực cải cách được đón nhận và đạt được kết quả khích lệ.
Tuy nhiên, chuyên chế có xu hướng mạnh lên và phức tạp, một mặt để củng cố quyền lực chống tham nhũng và ‘tự diễn biến, tự chuyển hoá’ trong bộ máy cầm quyền, mặt khác lạm dụng quyền lực trước lo ngại từ đòi hỏi dân quyền, dân chủ có thể lan rộng làm suy yếu chế độ.
Chế độ Đảng Cộng sản toàn trị mang đặc tính chuyên chế là nhà nước được miễn trừ khỏi các quy định pháp luật với việc duy trì bộ máy an ninh đông đảo, rộng khắp để kiểm soát mọi mặt cuộc sống của người dân.
Lạm dụng quyền lực hiện nay đang tạo ra xu hướng đáng lo ngại trong công luận. Nó có thể làm tổn hại đến nỗ lực cải cách thể chế hiện nay.
Nỗ lực cải cách
Những sai lầm về chính sách và yếu kém về quản lý kinh tế xã hội trong thập niên trước là sức ép trực tiếp buộc Đảng Cộng sản Việt Nam phải tiến hành cải cách thể chế. Hậu quả của các chính sách sai lầm là sự sụt giảm tăng trưởng kinh tế và bất ổn thể chế. Hơn thế, sự bất ổn diễn ra nghiêm trọng trong bộ máy chính quyền.
Đảng nhận định đó là ‘sự tự diễn biến, tự chuyển hoá’ của lãnh đạo đảng viên. Nhiều cán bộ, trong đó có bộ phận lãnh đạo cao cấp của Đảng đã ‘lợi dụng chức quyền’, ‘cố ý’ vi phạm kỷ luật đảng và pháp luật, tham nhũng lan rộng. Hơn thế, ‘các nhóm lợi ích’ được hình thành và phát triển đe doạ những nguyên tắc lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ.
Sau Đại hội 12, đầu năm 2016, Đảng Cộng sản đã và đang nỗ lực cải cách. Một mặt, đảng tăng cường củng cố tổ chức đảng, trừng trị tham quan, xoa dịu công luận nhằm giảm bớt ấn tượng xấu, tiêu cực về bộ máy lãnh đạo các cấp chính quyền. Mặt khác, đảng nới rộng quyền tự do kinh doanh, khuyến khích tư nhân khởi nghiệp, đầu tư, gỡ bỏ rào cản về luật pháp và hành chính, và tạo sức ép với bộ máy hành chính.
Sự khởi sắc kinh tế, nhất là tốc độ tăng trưởng cao trong ba năm gần đây trong bối cảnh trong nước và quốc tế bất định, phức tạp, có thể tạo ‘không khí phấn khởi’, nhưng không thể cải thiện nhiều về chất lượng nền kinh tế và niềm tin phát triển bền vững.
Hai khuynh hướng thay đổi nêu trên, từ khía cạnh chính sách công, chứa đựng mâu thuẫn. Kinh tế mở hơn hướng về phía thị trường trong khi quyền lực Đảng tập trung cao hơn với đặc trưng chuyên chế luôn hàm chứa rủi ro bạo lực bị lạm dụng và tha hoá.
Sự ngộ nhận có thể lớn dần, có thể trở thành nguy cơ lớn hơn khi câu hỏi cơ bản không có câu trả lời thoả đáng rằng Đảng Cộng sản có thể lãnh đạo kinh tế thị trường với hai hệ tư tưởng có bản chất trái ngược nhau.
Một trong những khác biệt lớn giữa hai mô hình chế độ chính là cách thức và tình huống sử dụng quyền lực nhà nước.
Đảng tập trung quyền lực
Tập trung quyền lực để củng cố tổ chức và chống tham nhũng những nỗ lực song hành của Đảng Cộng sản Việt Nam trong những năm gần đây.
Dùng quyền lực của đảng, nhà nước để chống tham nhũng được coi như ‘ta đánh ta’, ‘tự lấy đá ghè chân mình’, ‘đánh chuột không làm vỡ bình’… để giảm thiểu sự bất mãn từ dân chúng, mà không dựa vào dân bằng cơ chế dân chủ, khả thi là một hình thức biểu hiện của chuyên chế.
Sau Đại hội 12, một mặt, Đảng Cộng sản đang ‘chỉnh đốn’ tổ chức nội bộ bằng cách tập trung cao quyền lực. Một mặt, đảng ban hành nhiều quy chế, quy định về đề cử, tuyển chọn, khen thưởng, kỷ luật, nêu gương… và luân chuyển, bố trí nhân sự trong hệ thống chính trị hiện hành cũng như quy hoạch lãnh đạo ‘chiến lược’ chuẩn bị cho Đại hội 13.
Hơn thế, đảng mạnh tay ‘trừng trị’ quan chức tham nhũng. Tính từ đầu nhiệm kỳ đến nay, hơn 90 cán bộ thuộc diện TƯ quản lý, trong đó có 21 ủy viên Trung ương đảng, nguyên ủy viên Trung ương đảng (trong đó có 2 ủy viên Bộ Chính trị), 22 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang… đã bị thi hành kỷ luật Đảng và bị toà án kết tội.
Gần đây có một số vụ kỷ luật thu hút sự quan tâm của công chúng.
Ngày 8/1/2020 Ủy ban Kiểm tra Trung ương công bố Ban thường vụ Thành ủy TP HCM nhiệm kỳ 2010 – 2015 và Ban cán sự đảng Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh nhiệm kỳ 2011 – 2016 và một số cá nhân vi phạm khuyết điểm đến mức phải xem xét kỷ luật, trong đó có cựu Bí thư, cựu Chủ tịch và các Phó chủ tịch;
Ngày 9/1 Bộ Chính trị kỷ luật cảnh cáo Bí thư Thành ủy Hà Nội;
Ngày 10/1 Bộ Chính trị quyết định thi hành kỷ luật Bí thư thành phố Hà Nội bằng hình thức cảnh cáo do có những vi phạm, khuyết điểm nghiêm trọng;
Ngày 13/1 hai cựu chủ tịch Đà Nẵng Trần Văn Minh, Văn Hữu Chiến bị toà án tuyên phạt lần lượt 17 và 12 năm tù…
‘Chống tham nhũng không vùng cấm’ được Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng được nhận mạnh mới đây, khi trả lời Báo Quân đội nhân dân nhân Tết Nguyên đán – Xuân Canh Tý 2020 và đánh dấu 90 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Ông đã khẳng định quyết tâm và ‘cam kết’ của Đảng Cộng sản ‘tuyên chiến’ với bộ máy lãnh đạo tha hoá, đồng thời thể hiện quyền lực tuyệt đối của đảng.
Danh sách các lãnh đạo và nguyên lãnh đạo cao cấp dự đoán có thể còn kéo dài trước Đại hội 13 của đảng.
Chuyên chế trước lo ngại
Chuyên chế trước lo ngại về những biểu hiện hoặc thách thức mà theo cách diễn giải của đảng cho rằng có thể làm suy yếu quyền lực của mình.
Chuyên chế gây nên sự sợ hãi. Không chỉ những kẻ tội phạm mới phải sống trong nỗi sợ hãi. Không chỉ các quan chức tha hoá, ‘tự diễn biến, tự chuyển hoá’ ‘bị lộ’ hoặc ‘chưa’ trong bộ máy cầm quyền, mà cả những biểu hiện gây ra lo ngại cho đảng từ phía xã hội, từ dân chúng cũng là đối tượng của chuyên chế.
Ngoài ra, các học giả, các nhà bất đồng chính kiến, các blogger và các lãnh đạo doanh nghiệp cũng có thể phải chịu cảnh ‘nghi ngờ’ và lo sợ bị xét hỏi.
Tình trạng bộ máy hành chính trì trệ, ‘trên nóng, dưới lạnh’, ‘giấu mình chờ thời’ là một biểu hiện bề ngoài không ngạc nhiên khi nỗi sợ hãi treo lơ lửng trên đầu nhưng đảng lấy ‘răn đe’ làm chính.
Tuy nhiên, khi các biểu hiện từ phía xã hội khiến sự lo ngại lớn dần với quyền lực tuyệt đối thì đảng ra tay. Đơn cử hai biến cố dưới đây.
Ngày 21/ 11/2019 nhà báo chủ tờ Thời báo độc lập, tác giả của nhiều bài viết phê phán chính quyền và bảo vệ nhân quyền, đã bị khởi tố và bắt tạm giam về tội “Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước….”.
Rạng sáng ngày 9/1/2020 vụ ‘đột kích’ vào thôn Hoành, xã Đồng Tâm, thủ đô Hà Nội của hàng nghìn cảnh sát cơ động để giải quyết tranh chấp đất đai, đã gây ra thương vong, và hàng chục người bị bắt, và sau đó bị khởi tố với tội danh rất nặng…
Hành động trấn áp mang tính chuyên chế làm cho công luận ‘bàng hoàng’ và phản ứng lan rộng, mạnh mẽ, khiến chính quyền phải ‘chống đỡ’ lúng túng, bị động.
Hậu quả nặng nề và lâu dài
Chuyên chế tạo ra nỗi sợ hãi tức thì, nhưng hậu quả để lại có thể nặng nề và lâu dài. Từ các góc nhìn chính sách công làm tổn hại đến cải cách thể chế hiện nay.
Sự lạm dụng quyền lực nhà nước trong kinh tế làm tổn hại cải cách hướng tới thị trường, giảm chất lượng tăng trưởng. Chuyên chế trong chính trị tạo ra sự chống đối ngầm, bộ máy hành chính trì trệ, quan chức tuân lệnh nhưng ‘tâm không phục’. Nguy hại hơn, nếu chuyên chế trong các vấn đề dân sự, như các biến cố trên, có thể gây nên sự bất bình, mất niềm tin, thậm chí sự căm thù, đối đầu với chính quyền. Đây là căn nguyên bất ổn dẫn đến mâu thuẫn, chia rẽ và xung đột xã hội.
‘Biến cố Đồng Tâm’, nhìn từ nỗ lực cải cách thể chế hướng tới kinh tế thị trường và dân chủ, đó là ‘bước thụt lùi’.
Hình ảnh các vị đại biểu Quốc hội đến ‘hiện trường’, khi căng thẳng bùng phát năm 2017, gặp gỡ và lắng nghe từ cả hai phía người dân và chính quyền, đã từng cho thấy kỳ vọng về chính sách đối thoại, về cách giải quyết kiên trì và ôn hoà, theo luật pháp. ‘Biến cố Đồng Tâm’ đầu năm 2020 không chỉ dập tắt mọi tia hy vọng về sự thay đổi dân chủ. Lời kêu gọi Bộ Chính trị và Quốc hội ‘vào cuộc’ trở thành sự ngộ nhận đáng thương.
Việc gửi ‘Đơn tố giác tội phạm’ tới các cơ quan chức năng yêu cầu điều tra về cái chết của ông Lê Đình Kình thể hiện sự kiên trì đấu tranh của các nhà hoạt động dân sự vì sự thật và công lý.
Một số tổ chức quốc tế như Theo dõi Nhân quyền hay Ân xá Quốc tế lên tiếng về vi phạm nhân quyền, thậm chí của một số nghị sĩ của một số nước phát triển, như Hoa Kỳ hay Liên minh Châu Âu lên tiếng về ‘điều tra độc lập’, nhưng để tạo ra sức ép ngăn việc phê chuẩn Hiệp định Thương mại Tự do EU – Việt Nam (EVFTA) và Hiệp định Bảo hộ Đầu tư EU – Việt Nam (EVIPA) tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố khác trong bối cảnh các nước này cũng đang đặt ưu tiên tăng trưởng kinh tế lên trên. Đúng vậy, hôm 21/1/2020 tại Brussels, Ủy ban Thương mại Quốc tế thuộc Nghị viện Châu Âu vẫn đã thông qua 2 hiệp định nêu trên, mở đầu cho việc phê chuẩn các thỏa thuận này.
Các biến cố nêu trên xảy ra vào thời điểm ‘nhạy cảm’ trong bối cảnh có những nỗ lực cải cách thể chế và chuẩn bị cho Đại hội 13, được cho là ‘bất ngờ’ đối với một số nhà phân tích tình hình chính trị Việt Nam. Đã xuất hiện giả định về ‘thuyết âm mưu’, rằng liệu có ‘kẻ giấu mặt’ ngăn cản quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và cố tình gây ra biến cố để giải quyết xung đột quyền lực nội bộ.
Cải cách hướng tới thể chế dân chủ là quá trình khó khăn, lâu dài nhưng có thể là xu hướng văn minh của loài người. Chuyên chế không những không thể là công cụ để cải cách, mà còn là ‘bước lùi’ và để lại những hậu quả nặng nề và lâu dài./.
Bài viết phản ánh quan điểm riêng của tác giả, nguyên Chủ nhiệm Khoa Chính sách Công, Học viện Chính sách & Phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam, gửi cho BBC News Tiếng Việt từ Hà Nội.