Quý Niên trưởng, Chiến hữu và Thân hữu

 

Hằng năm, nhân ngày kỷ niệm 19 tháng 6, nhiều đoàn thể chiến sĩ QLVNCH họp mặt để ôn lại quá khứ, kiểm điểm các chiến dịch truy lùng và tiêu diệt phiến loạn Cộng sản.  Ngày nay cuộc chiến vũ khí tạm ngưng, nhưng cuộc chiến nhân quyền để táI lập tự do, dân chủ, hạnh phúc cho toàn dân Việt Nam đang được phát động mạnh mẽ khắp năm châu, bốn bể.

Ny Quân lực thường là ngày thành lập quân đội hoặc là một ngày đặc biệt để vinh danh quân đội của một quốc gia. Ngày Quân Lực Hoa Kỳ (US Armed Forces Day) được định vào thứ bảy, tuần lễ thứ 3, tháng 5 mỗi năm. Việt Nam Cộng Hòa định ngày 19 tháng 6, từ năm 1965 làm Ngày Quân Lực.

 

Quân đội Việt Nam Cộng Hòa được hình thành qua các giai đoạn:

Giai đoạn 1946-1949 là giai đoạn lập các lực lượng quân sự gồm có Vệ Binh Nam Việt, Bảo Vệ Quân Trung Việt và Bảo Chính Đoàn Bắc Việt.

Giai đoạn 1949-1955: Chiếu Hiệp Ước Élysée năm 1949, Quốc Gia Việt Nam được thành lập Vệ Binh Quốc Gia với quân số 60 ngàn người. Các đơn vị Vệ Binh Nam Việt, Bảo Vệ Quân Trung Việt và Bảo Chính Đoàn Bắc Việt được chuyển qua Vệ Binh Quốc Gia.

Năm 1949, Mao Trạch Đông chiếm Trung Hoa lục địa và Tưởng Giới Thạch phải di tản ra đảo Đài Loan. Để đối phó với tình hình khẩn trương nhằm chặn đứng sự bành trướng  của chủ nghĩa Cộng Sản tại Đông Dương, Hoa kỳ đã  viện trợ giúp cho Quốc Gia Việt Nam trở thành tiền đồn chống Cộng tại Đông Nam Á.  Quốc Gia Việt Nam ban hành luật động viên và lập các trường huấn luyện Binh Sĩ, Hạ Sĩ Quan và Sĩ Quan, trong đó có Trường Sĩ Quan Nam Định, Trường Sĩ Quan Thủ Đức và di chuyển Trường Sĩ Quan Đập Đá Huế lên Đà lạt năm 1951.

T ình hình chiến sự biến chuyển nhanh chóng. Trung Cộng hỗ trợ Việt Minh mở các trận đánh ở Bắc Việt nên Trường Sĩ Quan Nam Định huấn luyện được một khóa thì ngưng hoạt động. Trong thời gian 1950-1955, Vệ Binh Quốc Gia đã tham chiến, tảo thanh, càn quét phiến loạn Việt Minh từ Nam chí Bắc. Trong trận đánh Điện Biên Phủ, Việt Minh đã hy sinh hơn vài chục ngàn quân để làm áp lực đưa vấn đề Việt Nam ra Hội Nghị Geneve. Hiệp Ước Geneve do Thực Dân và Công Sản ký kết ngày 20 tháng 7 năm 1954, đã chia cắt Việt Nam ra làm hai miền Nam (Quốc Gia), Bắc (Cộng Sản).

Năm 1955, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa được thành lập và quân đội Quốc Gia Việt Nam được đổi danh xưng thành Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa. Từ năm 1965 quân đội VNCH được mệnh danh là Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Quân Lực VNCH đã gia tăng từ 60 ngàn quân năm 1950 đến hơn 1 triệu quân năm 1975.

Cộng sản Hà nội, điên cuồng vì tham vọng lập công với Công Sản Quốc Tế, quyết xâm lăng miền Nam Việt Nam để dâng cho Nga Sô và Trung Cộng, dù phải hy sinh đến người Việt cuối cùng. QLVNCH đã chiến đấu mãnh liệt trên mọi chiến trường nhưng đến năm 1975, vì thiếu phần tăng viện của Thế giới tự do, đành phải lui binh.

Đồng bào quốc gia quốc nội cũng như hải ngoại luôn hãnh diện về cuộc chiến chống CS vô thần vì đó là một cuộc chiến tranh để bảo vệ chính nghĩa (a just war).  Bảo vệ Việt Nam Cộng Hòa chống Cộng Sản Bắc Việt xâm lăng hội đủ các điều kiện khách quan của một cuộc chiến tranh chính nghĩa phù hợp với các tiêu chuẩn khách quan được quốc tế công nhận:

 (1) VNCH đã chiến đấu để bảo vệ tự do, dân chủ và phú cường cho toàn dân miền Nam Việt Nam chống lại Cộng sản Hà nội xâm lăng, là một cuộc chiến tự vệ chính đáng (just cause),

(2) VNCH là một chính phủ hợp pháp do toàn dân miền Nam tấn phong qua các cuộc bầu cử tự do,  nên có trách nhiệm bảo vệ sinh mạng, tài sản và các quyền tự do căn bản của Tạo hoá ban cho con người, như quyền được sinh sống, quyền được hưởng mọi quyền tự do và quyền tìm kiếm hạnh phúc. Chính phủ VNCH có thẩm quyền mời gọi sự hỗ trợ của các quốc gia tự do trợ lực ngăn chặn CS xâm lăng (lawful authority),

(3) Chiến đấu để  bảo vệ chính nghĩa là nghĩa vụ thiêng liêng của mọi công dân trong một quốc gia tư do (good intention),

(4) VNCH tiến hành cuộc chiến chống xâm lăng trong tinh thần người Việt cao quý, nhân đạo, về cả quân sự lẫn chính trị (đối xử nhân đạo với tù binh, chiêu hồi các cán binh lầm đường lạc lối, tái lập đời sống an cư lạc nghiệp sau khi quy chánh) (reasonable treatment),

(5) Phương tiện và cường độ chiến đấu hợp lý, tương xứng với những thiệt hại về nhân mạng và tài sản do đối phương gây nên hay chiến tranh có giới hạn. VNCH đã không tiến quân ra Bắc Việt để tiêu diệt phiến Cộng (means proportion),

(6) VNCH tôn trọng mạng sống của đồng bào, di tản thường dân ra khỏi trận địa (no innocent people harm). Trong lúc đó, cộng quân tàn sát dân chúng trong các vùng bị chiếm đóng, pháo kích bừa bãi vào các vùng đông dân cư, đô thị, trường học hay dùng dân chúng làm bia đỡ đạn cho chúng,

(7)  VNCH tuân thủ lệnh hưu chiến (International Conventions obeyed). Cộng sản xâm lăng, chủ trương vô độc bất trượng phu, vi phạm lệnh hưu chiến như trường hợp Tết Mậu Thân 1968, sát hại hàng chục ngàn thường dân vô tội. Ngoài ra, đảng CS Hà nội vi phạm các công ước quốc tế nhất là vi phạm Hòa Ước Ba Lê năm 1973, xâm lăng VNCH, thanh trừng, bắt bớ giam cầm trái phép dân, quân, cán, chính VNCH. 

 

Dù đang ở quê nhà hay hải ngoại, những chiến tích oai hùng của QLVNCH vẫn được đồng bào ca ngợi. Quốc Kỳ và Quân Kỳ VNCH vẫn tung bay trong tâm hồn người Việt quốc gia. Chính nghĩa của chính phủ VNCH và danh dự của QLVNCH ngày càng tỏ rạng.

Sau 46 năm viễn xứ, người Việt quốc gia hải ngoại vẫn không an tâm vì quốc dân còn sống trong cảnh lầm than, cơ cực về thể xác và cưỡng bức về tinh thần trong chế độ độc tài đảng trị của Cộng sản Hà nội, một ngụy quyền nổi tiếng “hèn với giặc và độc ác với dân”.

 

Việc nước cốt ở yên dân. Quân điếu phạt chỉ vì khử bạo”.

 

Ngày nay, cuộc chiến vũ khí tạm ngưng, nhưng cuộc chiến nhân quyền để tái lập tự do, dân chủ, hạnh phúc cho toàn dân Việt Nam đang được phát động mạnh mẽ khắp năm châu, bốn bể, bằng ba mặt giáp công:

(1) Vận động quốc tế, Hoa Kỳ và các quốc gia tự do thực thi các hiệp ước về Việt Nam mà họ đã đích thân ký kết để giành lại quyền Dân Tộc Tự Quyết cho dân tộc Việt Nam.

(2) Vận động, chiêu hồi quân đội nhân dân quay súng, trở về với chính nghĩa quốc gia, chống lại chủ nghĩa Cộng sản ngoại lại do bọn chính trị gia xôi thịt, tay sai của Trung Cộng, đang đưa vận mệnh Việt Nam đến chốn diệt vong, bị Hán hoá, và trở thành nô lệ cho Trung Cộng,

(3) Vận động đồng bào quốc nội bằng cách, tích cực hỗ trợ các đoàn thể tôn giáo, xã hội, nghiệp đoàn, sinh viên, học sinh, các nhà đấu tranh cho nhân quyền đòi hỏi tự do, dân chủ và nhân quyền cho Việt Nam. Mỗi khi đồng bào ta ở quốc nội bị đàn áp, chúng ta hãy đồng loạt lên tiếng trên toàn thế giới trong tinh thần “Một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ”.

 

Ba mặt giáp công là sách lược khả thi.  “Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại thành hòn núi cao”. Trong tinh thần hiệp nhất, hợp quần gây sức mạnh, chúng ta sẽ chiến thắng.

Tập thể Cựu SV SQTB/QLVNCH nói riêng và Quân lực VNCH nói chung tại hải ngoại là những chiến sĩ nhân quyền đa năng, đa hiệu, hiện diện khắp năm châu, bốn bể, đã, đang tham gia vào mọi lĩnh vực sinh hoạt Cộng Đồng VN trong các lĩnh vực, văn hóa, xã hội, kinh tế, chính trị chẵng những của tập thể đồng hương hải ngoại mà may mắn và quan trọng hơn  nữa , chúng ta hiện diện trong các cộng đồng, đoàn thể văn hoá, xã hội, kinh tế, chính trị của các quốc gia văn minh bản xứ. Với môi trường thuận lợi như vậy, chúng ta sẽ gây được ảnh hưởng rộng lớn trên chính trường quốc tế mà chế độ CSVN không thể nào cạnh tranh với lực lượng hùng hậu của chúng ta.  

 

 Kỷ niệm ngày 19-6 để Vinh Danh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và Tri Ân các Vị Anh Hùng Dân Tộc đã Vị Quốc Vong Thân.

 

Biết bao chiến sĩ đã hy sinh tánh mạng cho chúng ta được sống. Chúng ta có nghĩa vụ đền ơn, đáp nghĩa bằng cách hoàn thành sứ mệnh tái lập tự do, dân chủ, cho đồng bào quôc nội được hưởng đời sống yên bình trong tự do, hạnh phúc, toàn vẹn lãnh thổ, và chóng thoát khỏi ách độc tài Cộng sản với những hành động cụ thể của chúng ta từ hải ngoại trong tinh thần tôn trọng Tổ Quốc- Danh Dự – Trách Nhiệm.

 

Kính thư,

Trần Xuân Thời

Tổng Hội Trưởng