Mỹ tạo gọng kìm, dồn áp lực kép lên Trung cộng ở Biển đông

Mỹ đã cử một nhóm tàu tấn công hàng không mẫu hạm và một nhóm trực thăng đổ bộ đến Biển Đông, nơi Hàng không mẫu hạm Sơn Đông của Trung cộng tập trận cách đây hai tuần.

Hàng không mẫu hạm lớp Nimitz USS Carl Vinson và Hàng không mẫu hạm USS Essex lớp Wasp cùng các tàu hộ tống đã đi vào vùng biển phía nam của Biển Đông vào tối thứ Ba, theo tổ chức nghiên cứu South China Sea Strategic Situation Probing Initiative có trụ sở tại Bắc Kinh, chuyên theo dõi thông tin tàu dựa trên mã nguồn mở.

Hải quân Mỹ vẫn chưa công bố kế hoạch nhưng hai nhóm tàu tấn công lớn được cho là sẽ hội quân và có thể sẽ hoạt động cùng nhau.

Hai cuộc tập trận của nhóm tấn công Hàng không mẫu hạm kép của Mỹ đã diễn ra ở Biển Đông vào tháng 7/2020 và tháng 2/2021, trong khi vào tháng 10 năm ngoái, Hàng không mẫu hạm CSG Carl Vinson tham gia cuộc tập trận chung với Hàng không mẫu hạm trực thăng Nhật Bản JS Kaga trong khu vực.

Lần triển khai mới nhất diễn ra chỉ vài tuần sau khi Hải quân Trung cộng tổ chức các cuộc tập trận đồng thời cho 2 Hàng không mẫu hạm, một ở Biển Đông.

Chỉ còn 3 tuần nữa là tới Thế vận hội Mùa đông Bắc Kinh và Tết Nguyên đán, khi Trung cộng hy vọng sẽ tránh được sự gia tăng căng thẳng.

Hàng không mẫu hạm Sơn Đông của Trung cộng đã trở về cảng Tam Á, ở đảo Hải Nam, sau “các cuộc tập trận định hướng chiến đấu thực tế” – bao gồm bắt giữ máy bay chiến đấu hạ cánh, kiểm soát thiệt hại và tìm kiếm cứu nạn hàng hải – ở Biển Đông vào cuối tháng 12 năm ngoái.

Cảnh quay Hàng không mẫu hạm Sơn Đông tại Tam Á đã được đưa vào một phóng sự truyền hình nhà nước vào ngày 5/1, trong đó Chủ tịch Trung cộng Tập Cận Bình tuyên bố khai mạc chương trình huấn luyện quân sự năm nay.

Một Hàng không mẫu hạm khác là Liêu Ninh cũng đã trở về cảng Thanh Đảo, thuộc tỉnh Sơn Đông, theo Hải quân Trung cộng.

Trong khi Hàng không mẫu hạm Sơn Đông tập trận ở Biển Đông vào tháng 12, tàu Liêu Ninh tập trận ở khu vực Tây Thái Bình Dương.

Cục Đại dương, Môi trường Quốc tế và Khoa học thuộc Bộ Ngoại giao Mỹ cũng vừa công bố tài liệu nghiên cứu dài 47 trang, khẳng định Trung cộng không có cơ sở luật pháp quốc tế để đưa ra yêu sách, tuyên bố chủ quyền phi pháp với hầu hết khu vực Biển Đông và kêu gọi Bắc Kinh “ngừng các hoạt động trái pháp luật và cưỡng chế trên Biển Đông”.

Tài liệu này được cập nhật từ một nghiên cứu từ năm 2014, bác bỏ “Đường 9 đoạn” mà Bắc Kinh ngang nhiên công bố, tuyên bố chủ quyền sai trái với hầu hết khu vực Biển Đông.

Năm 2016, Tòa Trọng tài Thường trực (PCA) đã ra phán quyết, khẳng định tuyên bố chủ quyền của Trung cộng là không có cơ sở.

VietBF (14.01.2022)

 

 

Cặp ‘siêu chiến hạm’ Mỹ tới Biển Đông

Hai nhóm tàu chiến Mỹ tới Biển Đông. Với dự kiến tiến hành tập trận chung trong khu vực, Hàng không mẫu hạm USS Carl Vinson và tàu đổ bộ USS Essex đã tới Biển Đông.

Mỹ đã điều một nhóm tác chiến Hàng không mẫu hạm và một nhóm tàu đổ bộ tới Biển Đông, 2 tuần sau cuộc diễn tập của Hàng không mẫu hạm Trung cộng trong khu vực.

Theo SCMP, Hàng không mẫu hạm lớp Nimitz USS Carl Vinson và tàu đổ bộ lớp Wasp USS Essex cùng các tàu hộ tống đã tiến vào vùng biển phía Nam Biển Đông tối 12/1.

Tàu USS Essex diễn tập ở Biển Philippine trước khi tới Biển Đông. Ảnh: Twitter

Hải quân Mỹ vẫn chưa công bố kế hoạch, tuy nhiên, 2 nhóm tày này dự kiến sẽ hoạt động cùng nhau trong khu vực.

Mỹ từng điều 2 nhóm tác chiến Hàng không mẫu hạm tới Biển Đông vào tháng 7/2020 và tháng 2/2021. Tháng 10/2021, Hàng không mẫu hạm Carl Vinson tập trận chung với Hàng không mẫu hạm trực thăng JS Kaga của Nhật Bản trong khu vực.

Lần khai triển mới nhất của các nhóm tàu Mỹ diễn ra chỉ vài tuần sau khi Trung cộng tổ chức các các cuộc tập trận đồng thời của 2 Hàng không mẫu hạm, trong đó có 1 tàu tập trận ở Biển Đông và 1 tàu ở Tây Thái Bình Dương. Động thái cũng diễn ra chỉ 3 tuần trước khi khai mạc Thế vận hội Mùa Đông Bắc Kinh.

Theo Hải quân Mỹ, nhóm tác chiến tàu Carl Vinson tuần trước đã có mặt tại Biển Celebes – giữa Philippines, Nam Dương và Malaysia, với 9 máy bay thuộc phi đội không quân số 2, trong đó có 1 tiêm kích F-35C.

Trong nhóm tác chiến còn có tuần dương hạm tên lửa dẫn đường lớp Ticonderoga USS Lake Champlain và 5 tàu khu trục tên lửa dẫn đường lớp Arleigh Burke.

Sau nhiệm vụ kéo dài 3,5 tháng ở Trung Đông, nhóm tàu đổ bộ USS Essex đã di chuyển từ Ấn Độ Dương, vượt qua eo biển Malacca cuối tuần trước và đang trên đường tới tham gia tập trận. Tháp tùng tàu USS Essex có tàu USS Portland và USS Pearl Harbor.

Trong khi đó, Hàng không mẫu hạm lớp Kuznetsov Sơn Đông của Trung cộng đã trở về cảng ở Tam Á, phía nam đảo Hải Nam sau cuộc tập trận ở Biển Đông cuối tháng 12/2021. Tàu Liêu Ninh cũng đã trở về cảng Thanh Đảo, phía Đông tỉnh Sơn Đông sau cuộc tập trận ở Thái Bình Dương. Thời điểm đó, không có Hàng không mẫu hạm nào của Mỹ trong khu vực./.

VietBF (14.01.2022) 

 

 

Biển Đông: Mỹ cập nhật bản “cáo trạng” về yêu sách chủ quyền của Trung cộng

Ảnh minh họa: Đòi hỏi chủ quyền của Trung cộng trong phạm vi đường 9 đoạn tại Biển Đông. UNCLOS/CIA

Đúng vào lúc khối Đông Nam Á ASEAN chuẩn bị họp hội nghị thường niên của các ngoại trưởng, trong đó vấn đề Biển Đông có thể được gợi lên, Hoa Kỳ ngày 12/01/2022 đã công bố một tài liệu cập nhật được đánh giá là một “cáo trạng” hoàn chỉnh nhắm vào các yêu sách chủ quyền bị quốc tế coi là phi pháp của Trung cộng đối với vùng biển này. 

Tài liệu mang tựa đề “Ranh Giới Trên Biển – Limits in the Seas”, với số thứ tự 150 kèm theo tiểu tựa “Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa: Các yêu sách hàng hải tại Biển Đông” là một công trình nghiên cứu dài 47 trang do Cục Đại Dương và Các Vấn Đề Môi Trường và Khoa Học Quốc Tế thuộc Bộ Ngoại Giao Mỹ công bố.  

Đây là một tài liệu nằm trong loạt nghiên cứu kỹ thuật và pháp lý đã có từ lâu của Mỹ về các tuyên bố chủ quyền biển của mỗi nước và xem xét tính chất phù hợp với luật pháp quốc tế của các đòi hỏi này.  

Trung cộng phải chấm dứt các hành động cưỡng chế và trái pháp luật trên Biển Đông

Trong một thông cáo báo chí giới thiệu tài liệu, bộ Ngoại Giao Mỹ cho biết là công trình nghiên cứu mới nhất này đã kết luận rằng Trung cộng đang “khẳng định những yêu sách chủ quyền phi pháp trên đa phần Biển Đông, kể cả một yêu sách lịch sử phi pháp”. 

Thông cáo nhắc lại rằng bản nghiên cứu mới này dựa trên một phân tích năm 2014 của bộ Ngoại Giao Mỹ về các đòi hỏi chủ quyền của Bắc Kinh bên trong một “đường gián đoạn” mơ hồ trên Biển Đông. Kể từ năm 2014, Trung cộng tiếp tục khẳng định chủ quyền đối với một vùng rộng lớn trên Biển Đông cũng như tại những nơi mà Trung cộng gọi là “vùng nội thủy” và “quần đảo xa”, và tất cả các yêu sách đó đều không phù hợp với luật pháp quốc tế như được thấy trong Công Ước về Luật Biển năm 1982.  

Thông cáo kết luận: “Với việc công bố bản nghiên cứu mới nhất này, Hoa Kỳ một lần nữa kêu gọi Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa điều chỉnh các yêu sách hàng hải của mình sao cho phù hợp với luật pháp quốc tế như đã được phản ánh trong Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, tuân thủ phán quyết về Biển Đông ngày 12/07/2016 của Tòa Trọng Tài (Thường Trực La Haye), và chấm dứt các hoạt động cưỡng chế và trái pháp luật trên Biển Đông.” 

4 loại yêu sách của Trung cộng trên Biển Đông đều trái với luật pháp quốc tế

Theo các tác giả công trình nghiên cứu Ranh Giới Trên Biển, căn cứ vào các tài liệu đã được Trung cộng công bố, Bắc Kinh đã có đến 4 bốn loại yêu sách chủ quyền khác nhau trên Biển Đông, nhưng tất cả đều không phù hợp với luật pháp quốc tế như được phản ánh trong Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982. 

Loại yêu sách thứ nhất liên quan đến các thực thể trên biển (maritime features). Bản nghiên cứu ghi nhận là Trung cộng đòi “chủ quyền” đối với hơn một trăm thực thể ở Biển Đông, những bãi cạn hay rạn san hộ vốn chìm dưới mặt biển khi thủy triều lên cao và nằm ngoài giới hạn hợp pháp của lãnh hải của bất kỳ quốc gia nào.  

Trên bình diện pháp lý, những yêu sách như vậy không phù hợp với luật pháp quốc tế, theo đó các thực thể nửa chìm nửa nổi không thể là đối tượng của một yêu sách chủ quyền hợp pháp hoặc không có khả năng tạo ra các vùng biển như lãnh hải chẳng hạn. 

Loại yêu sách thứ hai liên quan đến các đường cơ sở thẳng. Cho đến nay, Bắc Kinh đã vạch ra hoặc khẳng định quyền được vẽ ra “các đường cơ sở thẳng” bao quanh các đảo, vùng biển và các thực thể chìm bên trong một không gian đại dương rộng lớn ở Biển Đông.  

Theo các tác giả của bản nghiên cứu, không một nhóm nào trong số bốn “nhóm đảo” mà Trung cộng đòi yêu sách chủ quyền ở Biển Đông (Quần Đảo Đông Sa (đảo Pratas), Quần Đảo Tây Sa (tức là Hoàng Sa), Quần Đảo Trung Sa (bãi Macclesfield), và Quần Đảo Nam Sa (tức là Trường Sa) đáp ứng được các tiêu chí địa lý cho việc sử dụng các đường cơ sở thẳng theo Công Ước Liên Hiệp Quốc 1982.  

Ngoài ra, không có một tập quán pháp lý quốc tế riêng biệt nào biện minh cho quan điểm của Trung cộng, theo đó nước này có thể xác định các đường cơ sở thẳng bao quanh các nhóm đảo. 

Quyền lịch sử của Trung cộng trên Biển Đông không có cơ sở pháp lý

Hai loại yêu sách tiếp theo mà Trung cộng đưa ra liên quan đến các vùng biển và các quyền gọi là “lịch sử” của Bắc Kinh trên Biển Đông. 

Về các vùng biển. Trung cộng khẳng định các yêu sách chủ quyền đối với nội thủy, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa dựa trên việc coi mỗi nhóm đảo trên Biển Đông mà nước này tự nhận chủ quyền là “một thực thể đơn nhất”.  

Bản nghiên cứu của Mỹ nhấn mạnh rằng điều vừa kể không được luật pháp quốc tế cho phép. Phạm vi của các vùng biển phải được đo từ các đường cơ sở được thiết lập hợp pháp, thường là ngấn nước dọc theo bờ biển lúc thủy triều thấp. Ngoài ra, trong các vùng biển mà họ tự cho là thuộc chủ quyền của mình, Trung cộng cũng đưa ra nhiều yêu sách về quyền tài phán không phù hợp với luật pháp quốc tế. 

Riêng về các quyền lịch sử, Trung cộng luôn khẳng định rằng họ có “quyền lịch sử” ở Biển Đông. Theo tài liệu vừa được Mỹ công bố, những tuyên bố về quyền lịch sử này “không có cơ sở pháp lý” và Trung cộng không đưa ra được chi tiết cụ thể để chứng minh các khẳng định của họ. 

Quan điểm của Mỹ bác bỏ “chủ quyền lịch sử” của Trung cộng trên Biển Đông cũng không khác gì phán quyết năm 2016 của Tòa Trọng Tài Thường Trực La Haye, đã cho rằng các yêu sách chủ quyền của Trung cộng bên trong “đường lưỡi bò” hoàn toàn không có cơ sở pháp lý. 

Yêu sách bất hợp pháp của Trung cộng phá hoai luật pháp quốc tế

Nhận định chung của bản nghiên cứu “Ranh Giới Trên Biển” 150 là tính chất bất hợp pháp của các yêu sách chủ quyền cũng như của những đòi hỏi đặc quyền tài phán của Trung cộng đối với gần như toàn bộ Biển Đông. Theo tài liệu vừa công bố, “những yêu sách đó của Trung cộng làm suy yếu nghiêm trọng sự thượng tôn pháp luật trên biển và nhiều quy định của luật pháp quốc tế được công nhận rộng rãi như đã được nêu lên trong Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển”.  

Khi loan tin về việc Mỹ công bố bản nghiên cứu mới bác bỏ các yêu sách chủ quyền rộng khắp của Trung cộng trên Biển Đông, hãng tin Pháp AFP ghi nhận là báo cáo này được đưa ra trong bối cảnh Washington ngày càng thách thức Bắc Kinh trên phạm vi toàn cầu, và cho rằng sự trỗi dậy của Trung cộng là mối đe dọa lâu dài cho Mỹ. 

AFP nhắc lại rằng vào năm 2020, ngoại trưởng Mỹ khi đó là Mike Pompeo đã công khai ủng hộ các tuyên bố chủ quyền của các quốc gia Đông Nam Á ở Biển Đông, vượt xa lập trường của Mỹ trước đó là thách thức Trung cộng nhưng không chỉ rõ ràng quốc gia nào có quyền hợp pháp trên Biển Đông. 

RFI (13.01.2022)

 

 

Nghiên cứu của Bộ Ngoại giao Mỹ bác bỏ yêu sách hàng hải của Trung cộng ở Biển Đông

Bộ Ngoại giao Mỹ ở thủ đô Washington

Bộ Ngoại giao Mỹ công bố trên trang web của họ hôm 12/1 bản nghiên cứu về các yêu sách hàng hải của Trung cộng ở Biển Đông, với kết luận rằng Trung cộng hiện nêu ra những yêu sách hàng hải bất hợp pháp đối với hầu hết Biển Đông, trong đó có một yêu sách phi pháp về quyền dựa vào lịch sử.

Tòa đại sứ Mỹ ở Hà Nội cũng giới thiệu nội dung bản nghiên cứu trên trang Facebook của cơ quan đại diện ngoại giao này. Tòa đại sứ viết rằng những yêu sách của Trung cộng làm suy yếu nghiêm trọng thượng tôn pháp luật trên biển và nhiều điều khoản của luật quốc tế được công nhận rộng rãi như được phản ánh trong Công ước về Luật Biển.

“Vì lý do này, Hoa Kỳ và nhiều quốc gia khác đã bác bỏ những yêu sách này của Trung cộng để ủng hộ trật tự hàng hải quốc tế dựa trên luật lệ ở Biển Đông và trên toàn thế giới”, Tòa đại sứ Mỹ nhấn mạnh.

Bộ Ngoại giao Mỹ cho biết bản nghiên cứu dài 47 trang mới công bố là ấn phẩm thứ 150 trong xê-ri các báo cáo và nghiên cứu của bộ mang tên “Các giới hạn ở các vùng biển”.

Xê-ri này gồm các bài viết, các phân tích về các vấn đề pháp lý và nguyên tắc liên quan đến những yêu sách hàng hải và phân định ranh giới cấp quốc gia, cũng như đánh giá xem những điều đó có phù hợp với luật pháp quốc tế không.

Cuộc nghiên cứu mới nhất lấy nền tảng là một phân tích của Bộ Ngoại giao Mỹ hồi năm 2014 về yêu sách “đường 9 đoạn” mập mờ của Trung cộng đối với Biển Đông. Yêu sách này còn thường được người Việt gọi là “đường lưỡi bò”.

Kể từ năm 2014, Trung cộng tiếp tục đưa ra yêu sách đối với một vùng rộng lớn thuộc Biển Đông, họ cũng đòi có quyền về vùng mà họ gọi là “nội thủy” và “các quần đảo bên ngoài”, tất cả những điều này đều không phù hợp với luật quốc tế thể hiện trong Công ước Quốc tế về Luật Biển 1982, Bộ Ngoại giao Mỹ nói hôm 12/1 trong lời giới thiệu về bản nghiên cứu.

Vẫn Bộ Ngoại giao Mỹ đưa ra quan điểm: “Bằng việc công bố bản nghiên cứu mới nhất này, Hoa Kỳ một lần nữa kêu gọi CHND Trung Hoa điều chỉnh các yêu sách hàng hải của họ cho phù hợp với luật quốc tế được thể hiện trong Công ước về Luật Biển, tuân thủ phán quyết mà tòa trọng tài quốc tế tuyên ngày 12/7/2016 trong vụ phân xử về Biển Đông, và Trung cộng hãy ngừng các hành động phi pháp và cưỡng ép ở Biển Đông”.

VOA (13.01.2022)

 

 

Mỹ chọc giận Trung cộng ở Biển Đông, Việt Nam hưởng lợi?

© Depositphotos / Frank Fischbach

Nước cờ mới của Mỹ với Trung cộng ở Biển Đông cho thấy thế đối đầu ngày càng gay gắt giữa chính quyền Joe Biden và Chủ tịch Tập Cận Bình. Việt Nam, Philippines và các bên tranh chấp ở vùng biển này liệu có được hưởng lợi?

Chính quyền Biden – Harris bác bỏ các tuyên bố chủ quyền phi pháp của Trung cộng ở Biển Đông, trong đó có những cơ sở địa lý, lịch sử của Bắc Kinh, đặc biệt là yêu sách đường lưỡi bò, đường chín đoạn.

Đây không phải lần đầu Washington lên tiếng phản bác các tuyên bố về chủ quyền, quyền lịch sử của chính quyền Chủ tịch Tập Cận Bình ở Biển Đông, đồng thời, chỉ rõ “tính độc quyền tài phán đối với hầu hết vùng biển ở Biển Đông” của Bắc Kinh là không thể chấp nhận được.

Mỹ bác yêu sách chủ quyền của Trung cộng ở Biển Đông

Mới đây, hôm 12/1, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ vừa công bố tài liệu 47 trang, trong đó bác bỏ các yêu sách phi pháp của Trung cộng ở Biển Đông.

Việc Bộ Ngoại giao Mỹ công bố tài liệu đặc biệt nhạy cảm này diễn ra trong bối cảnh Washington đang thách thức Bắc Kinh trong nhiều lĩnh vực trên toàn cầu khi cạnh tranh đối đầu giữa hai cường quốc ngày càng gay gắt.

Tài liệu công phu 47 trang do Cục Đại dương, Môi trường quốc tế và Các vấn đề khoa học thuộc Bộ Ngoại giao Mỹ soạn thảo, được sự thông qua nhất quán của chính quyền Biden – Harris.

Hãng tin AFP cho biết, tài liệu mới công bố của Washington khẳng định Trung cộng không có cơ sở theo luật pháp quốc tế với những tuyên bố ở Biển Đông mà Bắc Kinh đưa ra.

Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đánh giá thẳng thắn, ảnh hưởng tổng thể của những yêu sách hàng hải này là việc Trung cộng tuyên bố chủ quyền một cách phi pháp hoặc một số hình thức độc quyền tài phán đối với hầu hết Biển Đông.

“Những tuyên bố sai lệch của Trung cộng trong vấn đề Biển Đông đã làm suy yếu nghiêm trọng pháp quyền trên các đại dương và nhiều quy định được công nhận rộng rãi của luật pháp quốc tế được nêu tại Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển (UNCLOS) năm 1982”, Bộ Ngoại giao Mỹ nhấn mạnh.

Với những phân tích cụ thể, lập luận sắc bén về những hành vi “đơn phương o ép láng giềng ở Biển Đông” của Trung cộng, chính quyền Tổng thống Joe Biden yêu cầu Bắc Kinh “chấm dứt các hoạt động trái pháp luật và cưỡng chế ở Biển Đông”.

Đường lưỡi bò của Trung cộng ở Biển Đông chẳng là gì với Mỹ

Đây không phải lần đầu tiên Washington lên tiếng chỉ trích thẳn thắn những yêu sách phi pháp của chính quyền Chủ tịch Tập Cận Bình ở Biển Đông.

Năm 2020, dưới thời Tống thông Donald Trump, cựu Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo đã công khai ủng hộ tuyên bố chủ quyền của các quốc gia Đông Nam Á tại khu vực Biển Đông.

Tuyên bố của chính quyền Trump khi đó vượt xa lập trường của Mỹ trước đây là thách thức Trung cộng nhưng không chỉ rõ ràng quốc gia nào có quyền hợp pháp.

Washington cũng nhiều lần bác bỏ yêu sách đường lưỡi bò (đường chín đoạn) của Bắc Kinh ở vùng biển tranh chấp này.

Đường lưỡi bò hay đường chín đoạn mà Trung cộng đơn phương vẽ ra đòi yêu sách chủ quyền phi lý với gần như toàn bộ diện tích Biển Đông, không loại trừ âm mưu độc chiếm toàn bộ vùng biển này vì người Trung cộng cần tài nguyên ngày càng lớn để phát triển kinh tế, chưa kể vị thế địa chính trị của khu vực tranh chấp sẽ đem lại vô vàn lợi ích cho quốc gia nắm nhiều yêu sách chủ quyền nhất.

Trung cộng cũng đã tiến hành bồi đắp phi pháp 7 đá thuộc quần đảo Trường Sa mà Việt Nam cũng tuyên bố chủ quyền, biến những thực thể này thành đảo nhân tạo và nhanh chóng tiến hành quân sự hóa thành tiền đồn trên biển phục vụ vào nhiều mục đích khác nhau của chính quyền Bắc Kinh.

Thực tế, tài liệu mà Bộ Ngoại giao Mỹ vừa công bố vừa qua là bản cập nhật của nghiên cứu từ năm 2014 về tuyên bố đường chín đoạn hay đường lưỡi bò của Trung cộng.

Như Sputnik đề cập, từ năm 2016, Tòa trọng tài thường trực (PCA) ra phán quyết ủng hộ Philippines thắng kiện, đã bác bỏ các tuyên bố chủ quyền của Trung cộng ở Biển Đông, trong đó bao gồm “đường chín đoạn”.

Đáp lại, chính quyền Bắc Kinh coi phán quyết của PCA “như tờ giấy lộn” không hiệu lực và liên tục viện dẫn những lý lẽ mới, thậm chí khẳng định Trung cộng có “quyền lịch sử” đối với khu vực này.

 

Trong tài liệu mới công bố, Bộ Ngoại giao Mỹ cho rằng Trung cộng đã không đưa ra được các chi tiết cụ thể cho dẫn chứng trên, đồng thời khẳng định những tuyên bố như vậy là hoàn toàn “không có cơ sở pháp lý”.

Theo các tác giả của tài liệu, có hơn 100 thực thể mà Bắc Kinh đề cập ở Biển Đông bị nhấn chìm khi thủy triều lên (ở tình trạng nửa chìm nửa nổi), do đó “vượt quá giới hạn hợp pháp về lãnh hải của bất kỳ quốc gia nào”.

Đặc biệt, Trung cộng từng mượn các đặc điểm địa lý này để tuyên bố chủ quyền đối với 4 “nhóm đảo”.

“Tuyên bố của Trung cộng không đáp ứng các tiêu chí về đường cơ sở theo công ước Liên Hiệp Quốc”, Bộ Ngoại giao Mỹ khẳng định.

Lập trường nhất quán của Việt Nam về Biển Đông

Biển Đông là vùng biển đặc biệt quan trọng, với nhiều mỏ dầu khí trữ lượng lớn và tuyến vận tải hàng hải có vị trí chiến lược. Do đó, Trung cộng vẫn luôn tìm cách mở rộng các yêu sách chủ quyền của mình ở khu vực này, đặc biệt là vin vào yêu sách đường lưỡi bò (đường chín đoạn).

Về phía Việt Nam, trong các tuyên bố chính thức của chính quyền, Bộ Ngoại giao đặc biệt nhấn mạnh về các quyền hợp pháp của Hà Nội liên quan đến chủ quyền ở Biển Đông.

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao nhiều lần tái khẳng định, lập trường của Việt Nam về chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa và vấn đề Biển Đông là “rõ ràng và nhất quán”.

Việt Nam kiên quyết, kiên trì thực hiện các biện pháp phù hợp với luật pháp quốc tế để bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp ở Biển Đông.

Cùng với đó, Việt Nam cũng đề nghị các bên tuân thủ luật pháp quốc tế, Công ước quốc tế về Luật Biển (UNCLOS 1982) trong mọi hoạt động ở khu vực trên Biển Đông.

Đại diện chính quyền Hà Nội cũng kêu gọi các bên không có hành động làm phức tạp tình hình, góp phần duy trì hòa bình, an ninh, ổn định và trật tự pháp lý trên biển tại khu vực có vị trí địa chính trị đặc biệt quan trọng này.

Sputnik (13.01.2022)

 

 

Triển vọng phân định EEZ giữa Việt Nam và Nam Dương

Hình minh hoạ: Hình chụp hôm 26/7/2020 cho thấy tàu tuần tra của Nam Dương cạnh một tàu cá Việt Nam ở gần quần đảo Natuna  AFP

Các mục tiêu đàm phán biên giới của Nam Dương

Mới đây, truyền thông quốc tế cho biết Ngoại trưởng Nam Dương Retno Marsudi vừa công bố các mục tiêu trong năm 2022, theo đó khẳng định Jakarta sẽ tăng cường đàm phán để giải quyết tranh chấp biên giới với một số quốc gia Đông Nam Á. (1)

Theo bà Retno, các tranh chấp về biên giới cần được giải quyết bằng luật pháp quốc tế và đây cũng là lập trường của Nam Dương đối với tranh chấp ở Biển Đông.

Nam Dương tự coi mình là quốc gia không có tuyên bố chủ quyền trong tranh chấp giữa Trung cộng, Đài Loan và bốn quốc gia Đông Nam Á ở vùng biển giàu tài nguyên này. Tuy nhiên, khu vực mà Jakarta gọi là Biển Bắc Natuna lại nằm trong khu vực thuộc yêu sách “Đường 9 đoạn” mở rộng của Trung cộng ở Biển Đông. Chính sự chồng chéo này đã dẫn đến căng thẳng gần đây tại khu vực này, mặc dù Nam Dương không công nhận yêu sách của Trung cộng.

Quá trình đàm phán phân định vùng biển chồng lấn giữa Việt Nam và Nam Dương

Nam Dương là quốc gia láng giềng có quy chế quốc gia quần đảo nằm đối diện với bờ biển phía đông nam Việt Nam. Khi xác định phạm vi thềm lục địa và vùng đặc quyền về kinh tế, giữa hai quốc gia có vấn đề hoạch định ranh giới chung vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa chồng lấn: Giữa Việt Nam và Nam Dương có vùng thềm lục địa chồng lấn được hình thành trên yêu sách của chính quyền Việt Nam Cộng hòa năm 1971 và Nam Dương năm 1968 với diện tích khoảng gần 40.000 km2 nằm ở phía đông nam Biển Đông. Năm 1972 chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã đàm phán với phía Nam Dương nhưng hai bên không đạt được giải pháp nào.

Đến năm 1982, khi Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS) được ký kết và bắt đầu có hiệu lực năm 1994, UNCLOS đã trở thành nền tảng pháp lý để các quốc gia trên thế giới áp dụng phân định các vùng biển chồng lấn của mình.

Căn cứ vào các quy định của UNCLOS về việc xác định phạm vi vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, Việt Nam và Nam Dương xác định có một vùng biển và vùng thềm lục địa chồng lấn cần phân định. Năm 1969, Nam Dương tuyên bố ranh giới thềm lục địa của mình dựa theo nguyên tắc đường trung tuyến tính từ đường cơ sở quần đảo Nam Dương và đường cơ sở của các quốc gia hữu quan. Năm 1971 Việt Nam Cộng hoà đã vạch ranh giới đặc nhượng dầu khí trên thềm lục địa của mình, dựa theo trung tuyến tính từ bờ biển Việt Nam và bờ biển của đảo Bornéo, Nam Dương. Năm 1972, Nam Dương và Việt Nam Cộng hòa đã tiến hành đàm phán phân định vùng biển chồng lấn có diện tích khoảng 40.000km2.

Đến tháng 6/1978, Việt Nam và Nam Dương nối lại đàm phân định vùng chồng lấn rộng khoảng 98.000 km2 , được hình thành bởi đường ranh giới tự nhiên (rãnh sâu) và trung tuyến đảo – đảo. Sau đó, Việt Nam đã đề xuất đường phân định mới, “đường dung hòa”, nằm giữa đường rãnh ngầm và đường trung tuyến bờ – bờ, thu hẹp vùng chồng lấn xuống còn 40.000 km2.

Cho đến ngày 26/6/2003, Việt Nam và Nam Dương đã ký kết Hiệp định phân định thềm lục địa giữa hai bên. Hiệp định này có hiệu lực ngày 29/5/2006. Hiệp định gồm có sáu điều chứa đựng nội dung liên quan đến vị trí đường phân định, tính chất của đường phân định, về bảo vệ môi trường biển, về cách thức xử lý các cấu tạo mỏ dầu khí hoặc mỏ khoáng sản nằm vắt ngang qua đường phân định, cách thức giải quyết hòa bình tranh chấp thông qua hiệp thương hoặc đàm phán.

Vấn đề thềm lục địa chồng lấn đã được giải quyết, thế nhưng vẫn còn vùng biển thuộc đặc quyền kinh tế (EEZ) chồng lấn giữa hai bên vẫn chưa được phân định. Đây cũng là nguyên nhân khiến việc Nam Dương cáo buộc nhiều tàu cá Việt Nam đã xâm nhập trái phép vào EEZ của Nam Dương, trong khi ngư dân Việt Nam thì cho rằng họ bị oan.

Trong quá trình đàm phán phân định ranh giới thềm lục địa chồng lấn, Việt Nam đã đề xuất phương án sử dụng một đường phân định chung cho cả hai vùng thềm lục địa và đặc quyền kinh tế chồng lấn, nhưng Nam Dương không đồng ý. Có thể Nam Dương cho rằng phương án này không lợi cho họ cả về mặt pháp lý, với tư cách là quốc gia quần đảo mà UNCLOS 1982 đã quy định, lẫn về mặt diện tích phân chia cụ thể. Hiện nay, hai bên vẫn đang tiếp tục đàm phán để phân định ranh giới vùng đặc quyền kinh tế chồng lấn. Quá trình phân định EEZ này đã kéo dài hơn 20 năm mà chưa thể kết thúc.

Vì sao Nam Dương tăng tốc như vậy?

Ngoại trưởng Retno cho biết Nam Dương đã tiến hành 17 vòng đàm phán với Philippines, Malaysia, Palau và Việt Nam vào năm 2021: “Thật đáng chú ý khi tổng số vòng đàm phán được tiến hành trong thời gian đại dịch còn hơn gấp đôi so với năm 2020 – với chỉ bảy vòng. Trong năm 2022, các nỗ lực để đẩy nhanh việc phân định ranh giới đất liền và phân định ranh giới trên biển cũng sẽ được tăng cường”. Điều này cho thấy nỗ lực của Nam Dương cùng các nước láng giềng thế nào trong việc phân định các vùng biển chồng lấn.

Nam Dương luôn khẳng định rằng, bởi vì theo UNCLOS, Nam Dương là một quốc gia quần đảo, do đó, quyền sở hữu của Nam Dương đối với Biển Natuna là rất rõ ràng theo các quy định của UNCLOS. Tuy nhiên, từ nhiều năm trước, đặc biệt từ 2019 tới nay, các tàu Trung cộng đã liên tục xâm phạm khu vực biển này của Nam Dương.

Đầu tháng 9/2021, tàu Côn Minh 172  của Trung cộng và các tàu hộ tống đã đi vào khu vực Biển Natuna và tiến vào các vùng biển thuộc EEZ của Nam Dương. Thậm chí một tàu khu trục của Hải quân Trung cộng cũng đã xuất hiện ở đây trong thời gian này.

Trước sự đe doạ từ Trung cộng như vậy, đã có chuyên gia kêu gọi rằng: Để đối phó với ý đồ của Trung cộng, chính phủ Nam Dương không nên mở các cuộc đàm phán về ranh giới trên biển xung quanh quần đảo Natuna, để khẳng định rằng yêu sách “Đường 9 đoạn” là không có cơ sở pháp lý và đã bị tòa trọng tài quốc tế tuyên bố là vô hiệu năm 2016. Đồng thời, Nam Dương cần đàm phán về phân định biên giới trên biển, để bảo vệ và chia sẻ việc sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên trên biển Đông với các quốc gia láng giềng có tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông, đó là Malaysia, Brunei, Philippines và Việt Nam. Một thỏa thuận đa phương như vậy sẽ giúp củng cố các đường biên giới trên biển của Nam Dương ở Biển Natuna cũng như củng cố quan hệ giữa Nam Dương với các nước láng giềng. Đồng thời, thỏa thuận đa phương đó cũng sẽ bác bỏ các tuyên bố chủ quyền của Trung cộng ở Biển Natuna, đồng thời thúc đẩy hợp tác bảo vệ và sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên trong khu vực. (2)

Ngoài ra, Nam Dương cũng cần tăng cường các cuộc tuần tra hải quân trong vùng EEZ để bảo vệ ngư dân của mình và ngăn chặn các mối đe dọa từ các tàu Trung cộng. Thậm chí, Phó Đô đốc Aan Kurnia, người đứng đầu Cơ quan an ninh hàng hải Nam Dương (Bakamla), cho biết ông đã mời những người đồng cấp Brunei, Malaysia, Philippines, Singapore và Việt Nam tham dự một cuộc họp vào tháng 2/2022 để “chia sẻ kinh nghiệm và thúc đẩy tình anh em” giữa các quốc gia đang đối mặt với những thách thức tương tự do Trung cộng đặt ra. (3)

Liệu có hy vọng?

Những bước đi thiết thực như vậy từ Nam Dương – Quốc gia “anh cả” của ASEAN có lẽ sẽ khiến cho tình hình biển Đông có thêm những triển vọng trong thời gian sắp tới. Thời gian qua, các quốc gia ASEAN đã bị chia rẽ rất nhiều trước vấn đề biển Đông, cho nên, nhiều người hy vọng với các động thái của Nam Dương sẽ có thể có những khởi sắc cho sự đoàn kết của khối này trước Trung cộng.

Và trước hết, việc thúc đẩy mạnh đàm phán phân định EEZ giữa Nam Dương sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo hợp tác an ninh biển trong nội khối ASEAN, cũng như tạo đà cho các hoạt động hợp tác tương tự với các quốc gia biển Đông còn lại. Hy vọng rằng, đây sẽ là động lực để cả Việt Nam và Nam Dương cùng cố gắng xúc tiến việc phân định biển này hoàn tất trong năm nay.

 

_____________

Tham khảo:

  1. https://www.scmp.com/week-asia/explained/article/3163035/Nam Dươngs-land-and-maritime-border-disputes-malaysia
  2. https://thediplomat.com/2021/09/protecting-Nam Dươngs-sovereignty-in-the-north-natuna-sea/
  3. https://citytoday.news/Nam Dương-leads-asean-to-counter-chinas-heft-in-south-china-sea/

Hoài Viễn

RFA (13.01.2022)

 

 

Theo tin báo chí, tàu chiến Nhật Bản 2 tham gia chiến dịch tự do hàng hải ở Biển Đông

Hai tàu chiến của Nhật, Izumo (DDH-183) và Murasame (DD-101) tham gia cuộc luyện tập cứu hộ cứu nạn khẩn cấp ở vùng biển Sulu. Ảnh chụp ngày 28/06/2019. AP – Emily Wang

Trong khuôn khổ các chiến dịch bảo đảm tự do hàng hải, tàu chiến Nhật Bản đã từng tiến lại gần các đảo nhân tạo mà Trung cộng tuyên bố chủ quyền ở khu vực Biển Đông ít nhất 2 lần trong năm 2021. Tuy nhiên, hải quân Nhật Bản tiến hành các hoạt động này một cách thận trọng.

Trang web BenarNews (chi nhánh của Đài Châu Á Tự do) trích dẫn báo Yomiuri Shimbun cho biết, theo các nguồn tin xin ẩn danh trong chính phủ Nhật, các hoạt động tuần tra bảo đảm tự do lưu thông hàng hải của hải quân Nhật Bản đã được tiến hành trong tháng 3 và tháng 8 năm 2021. 

Một quan chức cấp cao của bộ Quốc phòng nói với tờ báo rằng các hoạt động này “nhằm cảnh báo Trung cộng, nước đang bóp méo luật pháp quốc tế đồng thời để bảo vệ quyền tự do hàng hải, luật pháp và trật tự trên biển”. 

Tuy nhiên, trong những lần tuần tra nói trên, các tàu chiến của Nhật chỉ hoạt động trong vùng biển quốc tế và không đi vào “vùng lãnh hải” 12 hải lý của Trung cộng. Báo Yomiuri nói thêm rằng các hoạt động này được tiến hành “khi di chuyển đến các cuộc tập trận chung với các lực lượng hải quân khác, hoặc khi Nhật điều hải quân đến Trung Đông.”

RFI (13.01.2022)

 

 

Mỹ phản bác các yêu sách không cơ sở pháp lý của Trung cộng ở Biển Đông

Ngày 12/1, Cục Các vấn đề đại dương, môi trường và khoa học quốc tế thuộc Bộ Ngoại giao Mỹ đã công bố một tài liệu nghiên cứu với nội dung phản bác “các yêu sách trái pháp luật” của Trung cộng ở Biển Đông, trong đó bác bỏ các cơ sở địa lý và lịch sử của Bắc Kinh.

Theo hãng tin AFP, tài liệu nghiên cứu dài 47 trang nêu rõ các yêu sách của Trung cộng tại Biển Đông là không có cơ sở theo luật pháp quốc tế.

Tài liệu khẳng định những yêu sách này làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến nhiều quy định của luật pháp quốc tế được ghi nhận trong Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982.

Bộ Ngoại giao Mỹ kêu gọi Trung cộng “ngừng các hoạt động trái pháp luật và gây sức ép ở Biển Đông”, đồng thời khẳng định những yêu sách mà Trung cộng gọi là “dựa trên lịch sử” là không có cơ sở pháp lý.

Biển Đông có nhiều mỏ dầu khí cũng như các tuyến vận tải biển quan trọng. Cộng đồng quốc tế bày tỏ quan ngại về việc Trung cộng tìm cách mở rộng các yêu sách chủ quyền trái phép tại vùng biển này.

VietBF (13.01.2022)

 

 

 

Hải quân Nhật Bản hành quân gần các đảo tranh chấp ở quần đảo Trường Sa hai lần một năm

© AFP 2021 / Ted Aljibe

Các tàu Lực lượng Phòng vệ Hàng hải Nhật Bản trong năm 2021 đã hai lần đi qua gần các đảo nhân tạo và bãi đá ngầm ở quần đảo Trường Sa mà Trung cộng tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông, theo báo Nhật Bản Yomiuri Shimbun đưa tin.

Các tàu chiến hải quân Nhật Bản ra khơi bên ngoài lãnh hải 12 dặm nhưng trong vùng đặc quyền kinh tế trên biển vào tháng 3 và tháng 8 năm 2021. Việc các tàu qua lại được cho là một phần của Chiến dịch Tự do Hàng hải (Freedom Of Navigation Operation — FONOP), như một phản ứng trước hoạt động gia tăng của hạm đội Trung cộng xung quanh quần đảo Senkaku đang tranh chấp.

Ngư dân hoạt động ở các đảo tranh chấp trên Biển Đông

Kể từ tháng 10 năm 2015, các tàu Hải quân Hoa Kỳ tuần tra gần các đảo do Trung cộng tạo ra để nêu rõ quan điểm của Washington cho rằng các đảo nhân tạo nằm trong vùng biển quốc tế và không thể là một phần của CHND Trung Hoa. Ngày 19 tháng 11 năm ngoái, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ lên án hành động của Trung cộng liên quan đến việc bắn vòi rồng vào các tàu tiếp tế Philippines trong vùng biển tranh chấp ngoài khơi quần đảo Trường Sa.

Trước đó, tờ South China Morning Post (Bưu điện Hoa nam Buổi sáng) đưa tin chính quyền Trung cộng đã bắt đầu trợ cấp cho ngư dân để củng cố sự hiện diện của họ trong vùng lãnh hải tranh chấp xung quanh quần đảo Trường Sa trên Biển Đông và cử 300 tàu tới đó mỗi ngày. Truyền thông đưa tin chính phủ Trung cộng đang trợ cấp nhiên liệu hàng ngày cho các tàu đánh cá gần các đảo tranh chấp.

Tranh chấp Biển Đông

Căng thẳng trên Biển Đông vẫn tiếp diễn trong nhiều năm do yêu sách của một số nước trong khu vực đối với quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Các quốc gia liên quan đến tranh chấp quyền sở hữu vùng lãnh thổ này là Việt Nam và Trung cộng. Ngoài ra, Brunei, Malaysia, Đài Loan và Philippines cũng tuyên bố chủ quyền một phần hoặc toàn bộ quần đảo. Ngoài vị trí chiến lược nằm ở ngã tư của Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa còn được các chuyên gia đánh giá là nơi tập trung trữ lượng dầu và khoáng sản lớn. Tại các Hội nghị, họp báo quốc tế, Bộ Ngoại giao Việt Nam luôn thể hiện rõ lập trường của Đảng, Nhà nước, Chính phủ về vấn đề tranh chấp ở Biển Đông, Hà Nội nhiều lần tái khẳng định chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.

Theo đó, Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, phù hợp với luật pháp quốc tế, cũng như chủ quyền, quyền chủ quyền, và quyền tài phán đối với các vùng biển liên quan ở Biển Đông, vốn đã được xác lập phù hợp với Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển 1982 (UNCLOS 1982) cũng như Bộ Quy tắc ứng xử giữa các bên COC.

Sputnik (12.01.2022)