„có thể nói được “nếu VNCH không có Dân Chủ-Tự Do” thì Miền Nam VN sẽ vĩnh viễn không bao giờ có Đại Họa 30-4-1975.“

Mường Giang 

(Ảnh trên Net) 

            Xã hội Việt Nam, từ sau khi thoát được cùm gông nô lệ của thực dân Pháp vào năm 1955, thực trạng vẫn không có gì thay đổi. Nếu ở miền Bắc dân chúng đã phải ngoi ngóp sống trong địa ngục máu của chế độ toàn trị duy vật cọng sản, thì ở trong Nam dù người dân đã hưởng được các quyền tự do,dân chủ qui định theo hiến pháp nhưng thật sự vẫn còn vướng vít quá nhiều hệ lụy, kể làm sao cho hết được. Đó là chưa nói tới những bóng ma Việt cộng núp lén khắp ngõ ngách cuộc đời, lúc nào cũng nhe răng cười cười vẩy gọi, đón mời những người nhẹ dạ, những kẻ thích “đúng núi này trông núi nọ”.

 

            Lịch sử đã minh chứng sự thất bại của các chính khách quốc gia trước đảng cộng sản, vì sự ngây thơ đôn hậu. Những người làm chính trị chuyên nghiệp có tầm vốc lớn trong nước mà còn lầm lạc như thế, thử hỏi các tầng lớp nông dân lao động và giới sinh viên học sinh thơ ngây trong trắng, làm sao và làm thế nào để phân biện nổi cái ranh giới “vô thường vô minh vô trách nhiệm” của tôn giáo và chính trị ?. Phương chi trong giai đoạn lịch sử 1955-1975, tại miền Nam, đâu đâu ta cũng thấy ô nhiễm cái mùi chính trị phảng phát trầm hương kinh điển tôn giáo và ngược lại tại các chốn tôn nghiêm sặc mùi chính trị. Ðiều này cũng dễ giải thích, đối với xã hội miền Nam thuở đó  vừa mới ngoi đưọc trong vũng bùn nô lệ, lại bước ngay vào ngưỡng cửa phồn hoa, chẳng khác gì cảnh “nhà quê lên tỉnh thành” ngơ ngơ ngáo ngáo trước nỗi khát vọng của tự do dân chủ vừa có được trong tầm tay.

 

             Tất cả coi như là một sự ưu đãi “từ trên trời rớt xuống“ cho nên hầu hết chẳng ai muốn quan tâm gìn giữ cái gia tài quý báu nhất VN mà cha ông ta đã đánh đổi bằng núi xương sông máu suốt 80 năm sống dưới ách nô lê của ngoại bang. Tệ nhất là đám con cháu của giới thượng và trung lưu trong lúc học hành, ngoài cơm ăn áo mặc thừa mứa, họ còn có nhiều thì giờ rong chơi và vô tình lọt vào chốn thiên la địa võng lúc nào không biết.. Tóm lại, chính trị tự bản chất của nó là để kiểm soát đám đông và tính sổ, tính điểm..Các con buôn chính trị miền Nam đã lợi dựng “tự do dân chủ“ phôi thai nhưng có thật của VNCH để làm lợi khí giúp CS Hà Nội, làm sụp đổ chính quyền Quốc Gia vào ngày 30-4-1975.

 

           Cũng bởi các sử gia của VN tới nay, vẫn chưa có đủ tài liệu khả thi để dàn dựng lại các giai đoạn lẫn lộn giữa tôn giáo và chính trị, cũng là nguồn gốc để cho Việt Cộng nghênh ngang đánh lận lịch sử như chỗ không người. Trước chính biến 1-11-1963 cho tới ngày VNCH bị sụp đổ 30-4-1975, dâu đâu chùa chiền vẫn tiếp tục xây kể cả thánh thất, nhà thờ, nhà nguyện và các am lên đồng, thầy cốt cô cậu, bà chúa thượng ngàn. Các cơ sở tôn giáo nào bị mất đất, thì được chính quyền thường đất khác, cấp tiền để xây cái mới to hơn. Các trường học công tư, Thiện Chúa, Phật Giáo, Cao Đài hay Hòa Hảo.. đâu có dành riêng cho ai, có tiền hay thi đậu thì vào học, ai cần biết ai theo đạo gì ?

 

            Còn nói học sinh biểu tình, xuống đường, rạch bụng, lóc da để phản đối bắt học sinh tham gia quân sự học đường, kiểm soát hành vi đạo đức của học sinh trong trường, thì thật là hành động bán đứng lương tâm của những kẻ lãnh đạo lúc đó vì mục đích chính trị mà phải vắt óc, mòn trán tìm đủ mọi cách để biến trắng thành đen. Rốt cục sau đó, trừ một số it lãnh tụ đếm trên đầu ngón tay được VC ưu đãi, hầu hết chỉ làm đá lót đường cho đoàn chiến xa T 54, PT 76 nhãn hiệu Nga sô, Trung Cộng vào cày nát miền Nam, để vong linh đồng bào và người lính Quốc Gia không bao giờ nhắm mắt nổi, khi biết Việt Cộng mới chính là kẻ đàn áp tôn giáo, hủy diệt tự do dân chủ của đồng bào và nền độc lập của dân tộc Việt.

(Ảnh trên Net)

 

             Như Chánh Ðạo viết trong tác phẩm “tôn giáo chính trị- Phật giáo 1963-1967”, thì kiêu tăng, kiêu binh thời nào cũng có, huống chi thời mạt pháp loan lạc. Hai nghìn năm lịch sử, Phật giáo và dân tộc Việt Nam đã đồng hành trên khắp các nẽo đường đất nước, chiu chung vinh nhục thăng trầm, cho nên sự việc Việt Cộng và bọn Việt gian nằm vùng tại miền Nam VN, dựa vào Phật tính của người dân Việt để chụp mũ hay áp đặt một chủ thuyết huyễn hoặc vu vơ, không bằng cớ, chẳng xác tín, thì chẳng qua cũng chỉ là một pháp nạn, như những thảm trạng mà người Việt nước Việt, phải gánh chịu từ sau tháng 5/1975. Sự chống đối công khai của Phật giáo, Thiên Chúa giáo, Tin Lành, Cao Ðài, Hoà Hảo trong nước. Những cuộc biểu tình gần như liên tục tại Hà Nội, Sài Gòn.. chống đối đàn áp tôn giáo, hủy diệt tự do,cướp của cướp đất đồng bào, khủng bố những người yêu nước tố cáo  hành vi công khai bán nước của tập đòan CSVN cho Trung Cộng suốt mấy năm qua, đã thật sự nói lên được cái bản chất vô luân của một chế độ, sắp bị đào thải bởi không còn bất cứ người Việt nào (trừ đồng bọn) chấp nhận. Ngọn lửa đấu tranh vì công lý và chính nghĩa của các vị chức sắc và giáo dân, khởi đầu tại Thái Hà (Hà Nội) lan tới Cồn Dầu (Đà Nẵng), Quảng Bình.. nay đã trở thành một đám cháy rừng, lôi cuốn công luận người Việt trong và ngoài nước vào cuộc “cách mạng” để tiến tới “dân chủ”. Chúng ta phải nương vào cuộc cách mạng đang xảy ra khắp nước, để thực hiện lại nền “dân chủ“ thật sự đã bị VC hủy diệt từ ngày 30-4-1975.

 

            Lịch sử vẫn là lịch sử dù cho bây giờ chúng ta đang phải đọc những trang ngụy sử của giòng vong quốc sử, trong đó có lịch sử thăng trầm của VNCH. Cũng từ lịch sử trên, chúng ta ngày nay có thể quả quyết với con em mình rằng “Miền Nam có Dân Chủ” nếu dựa trên hai nền móng “Bình Đẳng và Tự Do” của đồng bào được hưởng lúc đó, cho dù chưa có thể so sánh được với các nước tiền tiến Tây Phương nhưng vẫn cao hơn Đại Hàn, Đài Loan, Thái Lan và nhiều nước khác trên thế giới.

            Bởi có dân chủ nên ai cũng có quyền tự do ngôn luận, biểu tình để hoan hô hay đã đảo theo ý mình. Cũng từ đó khi ngồi đọc lại những trang sử cũ, mới thật sự thấy bùi ngùi, đau xót và càng thương thật nhiều những người lính đã nằm xuống, để bảo vệ sự sống còn cho miền Nam VN suốt 20 năm “đoạn trường máu lệ”, một cách uổng phí xương máu. Có những chuyện khôi hài cười ra nước mắt, như trong lúc VC tổng tấn công cả nước vào dịp Tết Mậu Thân (1968), thì có 65 ông tự xưng là giáo sư đại học, gửi kiến nghị đòi chính quyền kéo dài thời gian hưu chiến và phải tìm cách tiến ngay đến hòa bình thực sự ? (báo Sống Mới 24-1-68).

 

“rồi hòa bình sẽ đến, đến cho dân tộc Việt

đôi chim bồ câu trắng rủ nhau về làng xưa..”

 

             Vì giữ nước luôn là mục tiêu tối thượng của dân tộc Việt, nên bao đời đều coi trọng quốc phòng và những lúc quốc biến, nhà cầm quyền phải trưng binh hay hạn chế quyền tự do của người dân trong nước. Tất cả đều là chánh đạo, không có gì là độc tài để người dân phải làm loạn. Hơn nữa trong lãnh vực trị nước suốt bao đời, chưa từng thấy vua chúa Ðại Việt có thái độ thống trị thần dân của mình. Bởi vậy, hầu hết các cuộc rối loạn trong nước, đều không xuất phát từ sự bất mãn của dân chúng như ở bên Tàu, Pháp… mà là do tranh giựt quyền bính ngai vàng, như các thời Cù Thị-Triệu Ai Vương, Lý Phật Tử, Kiều Cộng Tiện, Hồ Quý Ly, Trần Thiểm Bình, Mạc Ðăng Dung, Lê Chiêu Thống… trong quá khứ và hiện nay là tập đoàn CSVN. Rốt cục vì quyền lợi cá nhân, đã cõng rắn về cắn gà nhà, rước voi dầy mã tổ hay chiụ làm tay sai, bán nước cho kẻ thù truyền kiếp Trung Cộng, để mà giữ đảng, tiếp tục bóc lột và giết hại đồng bào mình.

 

            Cho nên, dù Cao Bá Quát có là một thiên tài văn chương trác tuyệt, được vua Tự Ðức cũng như người cả nước biết tới nhưng khi đem cái tài văn chương của mình làm loạn, chẳng hạn như đã dùng hai câu thơ “Bình Dương, Bồ Bản, vô Nghiêu Thuấn – Mục Dã, Minh Ðiều, hữu Vũ Thang” để làm khẩu hiệu, giúp giặc Châu Chấu ở Bắc Việt chống lại Nhà Nguyễn, nên đã không làm cho ai động lòng hưởng ứng. Kết quả họ Cao bị chém vì tội làm giặc, liên lụy tới ba họ cũng bị họa lây, mà thê thảm nhất vẫn là cha con Cao Bá Ðạt và Cao Bá Nhạ.

 

            Trong cuộc chiến VN từ 1960-1975, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cũng được đánh giá là một thiên tài âm nhạc, rất được nhiều người ngưởng mộ nhưng không ai theo, vì Sơn không có chính nghĩa và trên hết đã đi ngược lại tư cách đạo đức của một trí thức trong thời loạn, phản bội lại quê hương đồng bào mình, khi sáng tạo những ca khúc phản chiến, kêu gọi mọi người cùng mình “yêu nước xã hội xã nghĩa”, chống lại dân tộc Hồng Lạc.

 

            Cùng trong một sắc thái trên, xã hội Miên Nam VN từ sau cuộc binh biến ngày 1-11-1963 tới cuối tháng 4-1975  đầy biến loạn, không phải vì chính quyền Miền Nam đàn áp hay bóp nghẹt tự do tín ngưởng, ngôn luận hay bất cứ tự do nào khác, mà thực chất do sự tranh chấp quyền lực nội bộ giữa các thế lực chính trị lúc đó. Kết quả VC Hà Nội đã lợi dụng cơ hội trên, để tuyên truyền chia rẽ và xử dụng cái vỏ bọc “cách mạng giải phóng”, đánh lận con đen mờ mờ ảo ảo, giữa sự phản kháng của một vài thành phần đối lập đòi chính quyền thay đổi, biến thành sự lật đổ chính quyền hợp pháp của VNCH như mục tiêu xâm lăng của cộng sản.

 

            Theo Robert Shapen viết trong “ The lost revolution “  vạch rõ ý đồ xâm lăng Miền Nam VN, của Hồ Chí Minh và đảng VC  đã có từ năm 1958, khi Hà Nội ra lệnh cho các cán bộ nằm vùng tại VNCH, khui lại các hầm vũ khí, đã được cán binh chôn dấu trước khi lên tàu tập kết ra Bắc Việt năm 1954, khi đất nước chia hai. Cũng trong năm này, khi Lê Duẩn lén lút vào Nam lượng giá tình hình  rồi trở ra Bắc, thì Hà Nội lập tức  họp Trung ương đảng lần thứ 15, thành lâp đảng bộ miền Nam tức Mặt Trận Giải Phóng (MTGPMN) vào ngày 20-12-1960, tấn công VNCH bằng hai mặt trận chính trị và võ trang, mà mở đầu là ba cuộc nổi loạn gọi là đồng khởi tại Trà Bồng (Quảng Ngãi), Mõ Cầy (Bến Tre) và Bắc Ruộng (Bình Thuận).

 

            Tóm lại dù có bị bôi bác đến mức nào chăng nửa, thì sự thật cũng là sự thật. Ðó là sau chín năm hiện hữu của nền đệ nhất Cọng Hòa Miền Nam từ 1955 đến ngày 1-11-1963, đã tạo được một chính quyền hợp hiến và nền an ninh trật tự, suốt từ Bến Hải vào tới Cà Mâu. Ngày nay, ngồi đọc lại những bài báo cũ của Lý Chánh Trung (một giáo sư đại học) đăng rải rác trên các tờ Ðất Mới, Ðối Diện, Ðiện Tín, Tin Sáng, Lập Trường…và được in lại trong hai tập “ ba năm xáo trộn và đối diện với chiến tranh  xuất bản tại thành Hồ sau 1975, công khai nhục mạ, chống đối chính quyền Miền Nam VN, đồng thời hết lòng trung hiếu, ca tụng Hồ Chí Minh và VC.

 

            Từ đó  ta mới thấy thấm thía về cái giá tự do, mà người VN từ sau ngày 30-4-1975 đã đổi bằng máu lệ, vàng tiền cùng sinh mạng, khi liều chết vượt biển tìm tự do trên biển Ðông. Tất cả đều là tội lỗi oan nghiệt, qua những tiếng khóc nức nở của các nạn nhân chiến tranh trong suốt 20 năm qua. Tất cả đều do Hồ Chí Minh và đảng VC vì tham lợi đảng phái và sự nghiệp cá nhân, mà bất chấp mọi thủ đoạn, gây nên cảnh núi xương sông máu, khiến cho không biết bao nhiêu triệu đồng bào phải vong thân khổ lụy, lôi kéo theo đất nước lạc hậu tới ngày nay, vẫn không ngóc đầu lên nổi, để mà dòm ánh thái dương như vẫn xa tít ở phương nào.

 

            Sau khi Hiệp định Geneve được ký kết vào năm 1954, tại Huế VC gài lại một số cán bộ nằm vùng làm cơ sở, móc nối dụ dỗ nhiều thành phần khoa bảng, thượng lưu của đất thần kinh vào đảng. Huế muôn đời vẫn còn đó, nên ai làm sao có thể quên được những tên tuổi trí thức đương thời… và Ðai Học Huế, với một số sinh viên theo VC, lợi dụng tự do tín ngưỡng và nền dân chủ pháp trị phôi thai của VNCH, để “dùng chính quả tim mình, làm trái phá mở đường rước xe tăng và bộ đội Hà Nội vào đô hộ dân tộc”.

 

            Huế những năm chống Mỹ cứu đảng, từ 1964-1967 qua các sinh viên VC nằm vùng trong đại học như Trần Quang Long, Ngô Kha, Phan Duy Nhân, Lê Thanh Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Trần Vàng Sao, Lê Minh Trườngà, Nguyễn Ðắc Xuân… Những người này, đến đại học trốn lính và mượn phương tiện Quốc Gia, để vót nhọn thơ thành chông, xuyên qua gan lính trận đang bảo vệ mạng sống cho mình. Cũng sẽ mài thơ như kiếm sắc, chặt đầu đồng bào Miền Nam theo đạo Thiên Chúa tại Huế, Ðà Nẳng, để đào sâu thêm sự chia rẽ lương giáo. Chính Hoàng Phủ Ngọc Tường, tên phản tặc sát nhân đồng bào Huế trong Tết Mậu Thân 1968, đã vênh váo thừa nhận là “bọn chúng chỉ lợi dụng sự học hành, để tranh đấu, nổi loạn, ném lựu đạn đuổi Mỹ, chống Quốc Gia, hoàn thành sự nghiệp rước cọng sản về dầy mã tổ Hồng Lạc” như ngày nay chúng ta đã thấy. Tóm lại sự nhục nhã của một thời loạn lạc, nay đã là một pho sử miệng, muôn đời cười chê đám trí thức no cơm ấm cật, nên không biết làm gì hơn bằng làm tay sai cho giặc, đâm sau lưng chiến sĩ và đồng bào mình.

 

             Trong bờ khói lửa triền miên, thì ở ngoài biển Ðông qua sự đồng tình của Nixon-Kissinger, cùng với tờ văn tự bán nước của Hồ Chí Minh-Phạm Văn Ðồng ký năm 1958, Trung Cộng xua tàu chiến cưỡng chiếm lãnh thổ của VN tại quần đảo Hoàng Sa ngày 17-1-1974. Tháng 10-1974 quận Thường Ðức (Quảng Nam) bị thất thủ, rồi tiếp tới là tỉnh Phước Long, mở đầu cho cuộc xâm lăng công khai của Bắc Việt, qua cái gọi là Hiệp định ngưng bắn hòa bình mà Mỹ đã dàn dựng với cọng sản quốc tế tại Pháp năm 1973. Máu đổ thành sông, thây cao thành núi, đó cũng là nhờ phần công đức của một ít người miền Nam, ăn cơm Quốc Gia thờ Ma VC, đâm lén những vết dao trí mạng vào hông đồng bào, đồng đội mình.

 

            Trong lúc cộng sản Bắc Việt đêm ngày tấn công VNCH trên khắp các mặt trận, kể cả tại Sài Gòn cũng như các thành phố lớn khác. Người lính VNCH lúc đó vừa phải trực diện đối mặt với cái chết từng giây phút tại mặt trận, để bảo vệ mạng sống ký sinh cặn bã của bọn phản chiến, thiên cộng, đang ẩn núp khắp nơi ở hậu phương, trong chùa, nhà thờ, tòa soạn, trường học… Bọn này đang sống như người ngoại cuộc, vô cảm dửng dưng trước sự đau khổ chết chóc của đồng bào, dù chúng cũng là người VN, cũng phải ăn và thở để mà sống, nên cũng phải có trách nhiệm làm người.

 

             Trong lúc cộng sản đang tiến quân như vũ bão, thì hậu phương Miền Nam có những bộ óc hư hoại điên khùng, hết ký giả đi ăn mày, tới biểu tình đòi hòa hợp. Tất cả đang say men phản chiến của đám Hippy nghiện ngập ma túy “The Beatles” đã làm loạn tại Mỹ, của Bertraud Russell, Jean Paul Sartre, Herbert, Marcuse… công khai tán tụng Hồ Chí Minh và cộng sản, hô hào hòa bình, đòi quân dân miền Nam phải buông súng đầu hàng, để chim bồ câu trắng từ Hà Nội bay tới, mang hạnh phúc no ấm, cho đồng bào miền Nam, như trong ca khúc phản chiến của Tôn Thất Lập.

 

             Tai Hoa Kỳ, Pháp, Nhật… nhiều con ông cháu cha của VNCH, được học bổng du học, vừa có tương lai, lại tha hồ trốn nghĩa vụ quân dịch nhưng nhiều tên no cơm ấm cật, tán tận lương tâm, chạy theo phản chiến chống lại đồng bào mình, trong số trên, hung hăng nhất vẫn là Nguyễn Thái Bình theo học ngành kỹ sư. Tên Việt gian này, vì làm loạn quá tại Mỹ nên bị trục xuất về nước và ngay khi phi cơ vừa đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất-Sài Gòn, đã dở trò không tặc cướp máy bay, nên bị lực lượng an ninh bắn chết năm 1972… Ðồng thời hằng ngày, trên các tờ Hành Trình, Ðối Diện, Ðất Nước, Tin Văn, Vấn Ðề, Ðiện Tín… với Nhất Hạnh, Lý Chánh Trung, Nguyễn văn Trung (chủ biên Hành Trình), Thế Nguyên (Trình bày), Nguyễn Ngọc Lan, Nguyễn Trọng Văn (Tin Văn), Lữ Phương, Chân Tín… công khai phỉ báng chính quyền, qua các bài viết ca tụng cọng sản một chiều. Các sự kiện này, nếu xảy ra trên đất Bắc trước đó và tại VN ngày nay, liệu những người này có được toàn mạng trước VC hay không? Ðó mới là chân lý, không có gì bằng độc lập tự do, dù là tối thiểu tại VNCH từ 1955-1975. 

             Sau này khi chiến tranh kết thúc vào tháng 5-1975, tất cả đầu não của VC đã lần lượt thú nhận rằng “không thể chiến thắng Quân đội Hoa Kỳ, Ðồng Minh và VNCH tại chiến trường” nên chỉ còn mong đợi vào mặt trận chính tri, qua các phong trào phản chiến khắp nơi. Cuối cùng CS  đã đánh gục đối phương trên bàn giấy, tại các thủ đô Hoa thịnh Ðốn, Ba Lê, Luân Ðôn, Ðông Kinh và Sài Gòn-Huế-Ðà Nẵng…

 

            Hệ quả thứ hai là những nỗ lực của phản chiến đã làm cho Miền Nam VN rơi vào tay VC, chứ không phải do chiến thắng quân sự mang tới. Quá rõ ràng mà ai cũng thấy được, là Tết Mậu Thân 1968, VC hầu như đã bị tiêu diệt khắp Miền Nam, kể cả thành phố Huế. Sau đó là những cuộc hành quân Toàn thắng của Liên quân Việt-Mỹ, đánh sang lãnh thổ Kampuchia năm 1970, Hạ Lào 1971, cắt đứt, tiêu diệt gần hết các mật khu, căn cứ của Hà Nội đã thiết lập trên đường mòn Hồ Chí Minh, từ Hạ Lào chạy suốt tới hải cảng Sihanouk của Miên, trên vịnh Thái Lan. Sau đó vào mùa hè đỏ lửa 1972, Bắc Việt lại càng thêm đại bại, khắp các Mặt trận Quảng Trị, Kom Tum, Bình Ðịnh, An Lộc…

 

            Ngay tại Miền Bắc, khắp nơi bị Hoa Kỳ oanh tạc khủng khiếp, sắp kéo cờ trắng đầu hàng… thì Nixon và Kissinger lại bày ra Hiệp định ngưng bắn cuội, giả mạo tại Paris 1973, bỏ lở cơ hội “chiến thắng cuối cùng của quân dân VNCH” trước cọng sản đệ tam quốc tế.

 

            Nhờ phản chiến, VC đã chiến thắng và có cơ hội đô hộ được cả nước bằng chế độ cộng an toàn trị, bất nhân và dã man nhất trong dòng sử Việt, kể cả 10 thế kỷ bị Bắc thuộc và 100 năm sống dưới gót sắt của thực dân Pháp, vẫn không thể so sánh nổi với cuộc sống tối tăm, đói nghèo, mất tự do tình người và nhân cách VN, suốt mấy chục năm qua, trong địa ngục trần gian, được mệnh danh là Thiên Ðàng Xã Nghĩa VC.

 

            Nói một cách khác, những người phản chiến bất cứ ở đâu trong cuộc chiến VN vừa qua, đã là thủ phạm chính, cùng với cộng sản quốc tế Bắc Việt, đã gây ra bao cuộc chết chóc thảm khốc cho hằng triệu người, từ lính tới dân của cả hai phía. Nhờ bọn phản chiến đem chiến thắng dâng vào tay VC, cho nên sau đó VC đã có dịp thảm sát hàng trăm ngàn người dân Miền Nam.. Nhờ phản chiến, nên có hàng trăm ngàn người Miền Nam cả dân lẫn lính, người thường và các nhà tu hành, văn nghệ sĩ, bị nhốt vào các nhà tù vĩ đại của VC khắp nước, kể cả vùng biên giới Việt-Hoa-Lào-Kampuchia..

 

            Phản chiến còn giúp VC trở thành kẻ nắm quyền sinh sát cả nước, ngu dốt qua các kế hoạch kinh tế theo chủ nghĩa điên khùng Mác-Lê-Mao-Hồ, khiến cho dân chúng VN, từ ấy đến nay, sống ngất ngư xác xơ nghèo đói. Cuối cùng nhờ phản chiến, mà VC mới có dịp công khai, đem mảnh giang sơn VN, từng hồi, từng dịp cắt, bán, biếu và dâng hiến cho kẻ thù truyền kiếp Trung Cộng. Nhờ phản chiến, nên người phụ nữ VN ngày nay, trở thành món hàng không thua súc vật, bị bày bán khắp các nước Á Châu, từ Trung Hoa, Ðài Loan, Hồng Kông, Nam Hàn, Tân Gia Ba, Thái Lan, Mã Lai… Ở đâu họ cũng bị chà đạp, hành hạ thể xác, tinh thần, trơ trọi tủi thân, đâu mấy ai, kể cả bọn phản chiến ngày xưa, nay đang đầy rẩy ở hải ngoại, biết tới nhưng có biết, liệu bọn chúng có dám nhận tội hay ăn năn, sám hối như ký giả Mỹ David Horowitz.

 

            Nên ta có thể nói được “nếu VNCH không có Dân Chủ-Tự Do” thì Miền Nam VN sẽ vĩnh viễn không bao giờ có Đại Họa 30-4-1975 như tại Đài Loan, Đại Hàn..là những đồng minh Mỹ cũng bị tố cáo là tham nhũng Nhưng các nước này đã tồn tại được tới ngày nay, vì đã biết cách trị nước theo kiểu “đi với Phật thì mặc áo cà sa, đi với ma thì mặc áo giấy”.

 

            Ngày 14/6/2011, Văn Khố Quốc Gia (National Archives) của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ,  đã phải cho giải mật (declassify) 7000 trang hồ sơ về những vấn đề của Việt Nam và Đài Loan trước 30-4-1975.. Sau đó, National Security Archive tại George Washington University công bố thêm 28,000 trang hồ sơ, trong đó có những mẫu đối thoại chi tiết giữa hai Ngoại Trưởng Henry Kissinger và Chu Ân Lai, càng làm cho hầu như cả thế giới (từng là đồng minh hay chiến hữu của Hoa Kỳ) nhìn ra sự thật phũ phàng, qua việc siêu cường số 1 đứng đầu khối tự do, vì quyền lợi cá nhân đã bán đứng Việt Nam Cộng Hòa và Đài Loan để đổi lấy sự hòa hoản và giao thương với Trung Cộng. Xét cho cùng, việc làm trên chẳng qua cũng chỉ là để xác nhận một cách chính thức những tài liệu ông Daniel Ellsberg tung ra trước đó là chính xác, với hy vọng chấm dứt những thị phi bất lợi về chữ tín của Mỹ trên thế giới, nhất là trong giai đoạn Hoa Kỳ rất cần nhiều đồng minh mới lẫn cũ, khi có ý định trở lại Châu Á-Thái Bình Dương hiện nay, chắc là để cùng Trung Cộng tiếp nối những giao kết bí mật còn dang dỡ của bốn mươi mươi năm về trước ?

 

            Tài liệu trên đã làm lộ bộ mặt thật của Kissinger, qua nhiều hồi ký đã xuất bản nay không còn giá trị vì nhiều điều viết đều sai với những chi tiết trong tài liệu này. Tóm lại  Henry Kissinger viết là để đánh bóng cá nhân và để chạy tội cho bàn thân. Tài liệu lịch sử của Văn Khố cho thấy chính sách của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ là đặt quyền lợi nước Mỹ trên hết, bất chấp sự phản bội những đồng minh cũng như đã giấu giếm và lừa đảo cả chính dân chúng và Quốc Hội Hoa Kỳ. Do ác tâm trên, nên từ đầu thập niên 1970, Hoa Kỳ vì cần bắt tay với Trung Cộng đối phó với Liên Xô, nên nhẫn tâm loại Đài Loan ra khỏi Liên Hiệp Quốc và đưa Tàu đỏ vào thay thế vị trí này, đồng thời còn  công nhận chỉ có một nước Tàu  và Đài Loan chỉ là một tỉnh của Trung Cộng cho đến ngày nay vẫn không thay đổi.

 

            Tài liệu cũng cho thấy  Hoa Kỳ quyết định bỏ rơi Việt Nam Cộng Hòa để mặc cộng sản Bắc Việt chiếm trong lúc Mỹ-Việt đang liên minh quân sự chống kẻ thù chung VC. Quan trọng nhất là Mỹ đã cam kết với Tàu đỏ sẽ phủi tay và bỏ ngõ Đông Nam Á và Biển Đông cho Trung Cộng tạo ảnh hưởng trong vài thập niên. Tài liệu còn ghi rõ vào dịp giáng sinh năm 1972, Bắc Việt rất hổn loạn và đang chuẩn bị đầu hàng vì không chịu nổi B-52 bỏ bom ở Hà Nội, nếu Hoa Kỳ tiếp tục bỏ bom thêm 2 tuần nữa thì VC đã đầu hàng. Nhưng vì đã thỏa thuận với Bắc Kinh nên Henry Kissinger và Tổng Thống Richard Nixon ngưng bỏ bom trong lúc chiến thắng đang gần kề, thay vào đó lại ký hiệp định ngưng bắn 28-1-1973 tại Ba Lê như một văn kiện bán đứng Miền Nam VN cho cộng sản đệ tam quốc tế!

 

            Nhưng quan trọng nhất trong cái mà người Mỹ gọi là “hậu chứng Việt Nam” có lẽ và chắc chắn không có tài liệu nào xác thực hơn bài báo của ký giả Thomas Fuller.vừa được đăng trên trang nhất của tờ New York Times nhân dịp Quốc Hận 30-4-1975 của VNCH. Ông viết về thực trang của đảng CSVN trên đất Việt từ sau ngày 30-4-1975. Bài báo được viết sau khi người ký giả Mỹ từ VN trở về, qua mắt thấy tai nghe nên đã ghi lại chỉ một phần nhỏ những sự việc qua mắt trần trong đời thực. Nhưng dù chỉ một phần ít ỏi hoàn cảnh xã hội được khai quật, tác giả  cũng đã nói lên được “thực chất thiên đàng xã nghĩa VN” sau 38 năm qua. Điều quan trọng nhất là ông đã mạnh dạn lột trần bộ mặt thật của những tên phản chiến trong quá khứ, đã góp phần đưa CSVN cưởng đoạt được VNCH, gây nên cảnh “nhà tan nước mất ngày nay”. Cuối cùng người ký giả Mỹ đề nghị những người này nên tự xử và phải xin lỗi quốc dân, nếu chúng còn có chút lương tâm!

 

 

Tài Liệu Tham Khảo:

 

– Chín năm máu lửa dưới chế độ NĐD (Nguyệt Đạm-Thần Phong)

– Trong lòng địch (Trần Trung Quân)

– Từ áo cà sa đến thập tự giá (Huệ Nhật)

– Đông Dương 1945-1973 (Nhiều tác giả)

– Hai ngàn năm VN và Phật Giáo (Lý Khôi Việt)

– Ton Giáo-Chính Trị 1963-1967 (Chánh Đạo)

– Đảng Cần Lao (Chu Bằng Lĩnh)

– Tâm Thư (Đổ Mậu)

– Ba năm xáo trộn (Lý Chánh Trung)

– Đối diện chiến tranh (Lý Chánh Trung)

– Thiên Hùng Ca VNCH (Phạm Phong Dinh)

– Huế: Thảm sát Mậu Thân 1968 (Liên Thành)

– Sau bức màn đỏ (Hoàng Dung)

– Sách Báo trong và ngoài nước…

            

 

Xóm Cồn Hạ Uy Di

Quốc Hận 30-4-2013

Mường Giang