***
Vì sao Ukraine thành công chống quân xâm lược còn VNCH thất bại?
Vann Phan
Cuộc chiến tranh xâm lược của Nga vào Ukraine, bùng nổ từ ngày 24 Tháng Hai, tính ra đã kéo dài hơn nửa năm mà vẫn chưa có dấu hiệu kết thúc. Trong cuộc xâm lăng này, siêu cường nguyên tử Nga, bao gồm 144 triệu dân, chống lại quốc gia đang mở mang Ukraine, chỉ có 44 triệu dân.
Dân phản chiến Mỹ rầm rộ biểu tình chống Chiến Tranh Việt Nam tại Washington, DC, ngày 17 Tháng Tư, 1965. (Hình: Michael Ochs Archives/Getty Images)
Các tin tức mới nhất, tính đến ngày 17 Tháng Chín, tức ngày thứ 205 của cuộc xâm lược Nga-Ukraine, cho hay quân đội Ukraine đã mở cuộc phản công mạnh mẽ tại các mặt trận miền Đông, giành được nhiều thắng lợi quan trọng và lấy lại được nhiều vùng lãnh thổ từng bị mất vào tay Nga trong những ngày đầu của cuộc chiến.
Tóm tắt tình hình chiến sự hiện nay tại Ukraine
Các nguồn tin tổng hợp báo chí truyền thông quốc tế cho hay, vào ngày thứ 205 của cuộc chiến, các lực lượng Ukraine đang chiến thắng tại nhiều mặt trận trong khi quân đội Nga đã bị buộc phải rút lui hoặc tháo chạy khỏi các vị trí họ từng chiếm giữ trên các vùng lãnh thổ Ukraine.
Những cuộc phản công trên bộ của các lực lượng Ukraine đang diễn ra tại phía Tây-Bắc thành phố Kharkiv ở phía Nam vùng biên giới Kherson-Dnipropetrovsk và gần Sông Inhulets của Ukraine.
Hiện quân Ukraine đang tiếp tục phản công tại miền Đông Ukraine, tạo áp lực nặng nề lên các vị trí đóng quân của Nga cùng các đường tiếp vận của họ ở phía Đông Kharkiv, phía Bắc Luhansk và phía Đông vùng Donetsk. Nguồn tin quân sự của Nga còn cho hay phía Ukraine cũng mở những cuộc tấn công trên bộ tại vùng Tây-Nam Izyum.
Trong khi đó, theo Cơ Quan Tị Nạn Liên Hiệp Quốc, tính từ Tháng Hai cho đến nay, đã có tới hơn 12.6 triệu dân Ukraine vượt biên giới để chạy sang tị nạn tại các quốc gia Âu Châu lân cận.
Các số liệu mới nhất cho hay đã có 6,114,787 người Ukraine chạy sang Ba Lan; 1,169,027 người sang Romania; 2,593,209 người sang Nga; 1,381,738 người sang Hungary; 778,335 người sang Slovakia; 606,707 người sang Moldova; và 16,705 sang Belarus.
Hầu hết những người chạy loạn đều là phụ nữ và trẻ em Ukraine. Đàn ông từ 18 tới 60 tuổi đã được chính phủ Ukraine yêu cầu ở lại quê nhà để tham gia chiến đấu chống quân Nga.
Vì sao Ukraine thành công chống quân xâm lược còn Việt Nam Cộng Hòa thất bại?
Chiến thắng hiện nay của quân Ukraine chống quân Nga, dù chưa phải là chiến thắng sau cùng, đã khiến nhiều quan sát viên và nhà viết quân sử trên khắp thế giới không thể không đặt ra câu hỏi: “Vì sao ngày nay Ukraine thành công chống quân xâm lược Nga còn Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) lại thất bại trước quân Cộng Sản hồi năm 1975 trong thế kỷ trước?”
Các yếu tố và sự kiện sau đây có thể giải thích vì sao Ukraine thành công trong khi VNCH lại thất bại:
Thứ nhất, tuy Quân Lực VNCH, xét về mặt vũ khí và trang bị – cũng như đặc biệt là về Không Quân và Hải Quân cùng với các lực lượng tổng trừ bị như Biệt Động Quân, Thủy Quân Lục Chiến và Nhảy Dù được đánh giá là mạnh hơn các lực lượng Cộng Sản Bắc Việt, nhưng hầu hết đều ở thế phòng thủ chứ không chủ động tấn công ra miền Bắc để tiêu diệt lực lượng địch tận gốc rễ. Không chỉ vậy, VNCH còn bị dàn trải ra quá mỏng trên bốn Vùng Chiến Thuật nên sức mạnh bị suy giảm so với các lực lượng Cộng Sản thường ở thế chủ động tấn công.
Trái lại, các lực lượng Ukraine tuy rõ ràng là yếu kém hơn quân Nga về mặt trang bị nhưng lại có lợi thế về mặt tinh thần chiến đấu chống một đội quân xâm lược từ một nước khác tràn tới với mục đích xâm chiếm đất nước của mình.
Thứ nhì, vì quân và dân VNCH tùy thuộc hầu như tuyệt đối vào các nguồn viện trợ về quân sự và kinh tế của Hoa Kỳ cho nên khi bị Hoa Kỳ bỏ rơi thì không còn đủ sức đứng vũng được nữa.
Ngược lại, quân và dân Ukraine vẫn tự mình xoay xở được cả về kinh tế lẫn quân sự và chỉ cần đến sự trợ giúp của Hoa Kỳ và Liên Âu lúc họ đang bị một quốc gia hùng mạnh như Nga tấn công.
Thứ ba, trước năm 1975, một phần đáng kể dân chúng miền Nam tự do không chịu tin rằng nếu đất nước bị rơi vào tay Cộng Sản thì đó là một thảm họa không có gì cứu vãn nổi, chỉ vì các thành phần này không hiểu biết gì về chủ nghĩa Cộng Sản mà lại còn bị các luận điệu tuyên truyền của Cộng Sản lừa phỉnh ngay từ khi diễn ra cuộc Chiến Tranh Đông Dương chống Pháp từ 1946 đến 1954. Đã thế, một số không nhỏ các nhà trí thức tại miền Nam tự do lại “sinh tật” phản chiến theo cái kiểu chống lại cuộc chiến tranh tại Việt Nam nhưng chỉ chống VNCH và chống Mỹ mà thôi.
Trái lại, quân và dân Ukraine hiểu rất rõ về chủ nghĩa Cộng Sản từ khi còn là một nước cộng hòa bên trong Liên Bang Xô Viết gần tám thập niên trước khi đất nước họ giành được độc lập từ năm 1991 cho tới nay. Người Ukraine thừa biết nước Nga ngày nay, tuy mang nhãn mác là một quốc gia dân chủ, nhưng thực chất là một quốc gia độc tài, đảng trị chẳng kém gì một nước Cộng Sản dưới quyền cai trị của ông Vladimir Putin, tổng thống, là một sĩ quan trong Cơ Quan Tình Báo KGB khét tiếng tàn ác thời Cộng Sản Liên Xô.
Thứ tư, trong thời gian miền Nam tự do phải chiến đấu để tự vệ chống lại cuộc xâm lược của Cộng Sản Bắc Việt, chỉ có chưa đầy phân nửa các quốc gia trên thế giới lên tiếng ủng hộ chính nghĩa của chính phủ VNCH, bởi vì họ cứ u mê tin rằng chủ nghĩa Cộng Sản là tuyệt vời. Đã thế, các phong trào phản chiến từ Hoa Kỳ cho tới miền Nam Việt Nam đã khiến Hoa Kỳ phải vội vã rút quân ra khỏi chiến trường miền Nam Việt Nam, đồng thời cũng làm suy nỗ lực chống Cộng của dân chúng và phần nào ảnh hưởng tới tinh thần chiến đấu của người lính Cộng Hòa.
Trong khi đó, có hơn phân nửa các nước khác trên thế giớ ủng hộ hoặc có cảm tình với Cộng Sản Bắc Việt, chỉ vì chưa ai biết rõ chân tướng của chủ nghĩa Cộng Sản ra sao, mãi cho đến khi những người Cộng Sản chiếm được miền Nam tự do và đặt ách thống trị lên toàn thể dân tộc Việt Nam, để rồi dẫn đến phong trào thuyền nhân và bộ nhân bỏ nước ra đi trong suốt hai thập niên 1970 và 1980, mong thoát ách đô hộ của Cộng Sản.
Ngược lại, ngày nay, tuyết đại đa số các nước trên thế giới đều bày tỏ cảm tình hoặc ra sức ủng hộ bằng nhiều cách cuộc chiến đấu của dân tộc Ukraine chống lại cuộc xâm lược của Nga.
Thứ năm, trong khi quân và dân VNCH bị Đồng Minh Mỹ dần dà cắt đứt viện trợ quân sự và kinh tế sau khi Hiệp Định Paris được ký kết vào năm 1973 thì nước Cộng Hòa Ukraine ngày càng được Hoa Kỳ và Liên Âu viện trợ dồi dào hơn về võ khí và tài chánh để chiến đấu chống lại cuộc xâm lược của Nga.
Hồi thế kỷ trước, thế giới tự do, vì chưa đánh giá đúng mức tầm quan trọng chiến lược của miền Nam Việt Nam như bây giờ cho nên họ không cảm thấy sợ hãi hay lo âu gì khi phần đất này của thế giới bị Cộng Sản Quốc Tế nuốt chửng.
Ngày nay, Hoa Kỳ và Âu Châu đã biết khôn rồi, vì thế họ phải quyết chí giữ vững phòng tuyến Ukraine để không cho nước Nga của ông Putin thực hiện giấc mộng xóa sổ quốc gia Ukraine nhằm thực hiện giấc mộng bành trướng bá quyền, rập theo theo khuôn mẫu của Cộng Sản Trung Hoa dưới quyền ông Tập Cận Bình.
Thứ sáu, vì trong thời Chiến Tranh Việt Nam, miền Bắc và miền Nam đều nói cùng một ngôn ngữ là tiếng Việt, ít ai chịu tin rằng Cộng Sản Bắc Việt là đội quân xâm lược đánh vào miền Nam Việt Nam để mà tận tình yểm trợ cho VNCH giữ vẹn nền độc lập của mình.
Ngày nay, hầu như không ai dám chối bỏ sự thể nước Ukraine đang bị nước Nga xâm lăng, bởi vì Nga và Ukraine là hai chủng tộc khác nhau, cho dù có tới 30% dân Ukraine nói tiếng Nga bên trong đất nước Ukraine.
Thứ bảy, Quân Lực VNCH tuy hùng mạnh nhưng được tổ chức rất cồng kềnh và phải tùy thuộc nặng nề vào nguồn tiếp liệu quân sự khổng lồ mới đối phó được với cuộc chiến tranh du kích do Cộng Sản phát động. Vì quân đội này được huấn luyện và trang bị để đánh giặc theo kiểu “nhà giàu” y như quân đội Mỹ, nên khi bị Mỹ cúp viện trợ quân sự thì quân đội đó không thể tiếp tục chiến đấu được nữa.
Ngoài ra, VNCH không hề có cơ hội phát triển kinh tế, kiến thiết hay mở mang gì được giữa lúc đất nước đang phải hứng chịu cuộc chiến tranh phá hoại và tiêu hao suốt hai thập niên kể từ thời lập quốc cho đến ngày mất nước.
Thứ tám, dân chúng VNCH tuy dấn thân vào cuộc chiến tranh tự vệ để chống lại cuộc xâm lược của Cộng Sản Bắc Việt nhưng trong lòng vẫn “mơ hồ” về một tương lai nào đó cho đất nước nếu rủi phe địch chiến thắng, do bởi quốc tế không ngớt tung ra các chiêu bài và giải pháp chẳng đâu vào đâu cả, như thành lập chính phủ liên hiệp, giữ quy chế trung lập, thực hiện đường lối hòa hợp, hòa giải dân tộc… lung tung cả lên. Thậm chí, nhiều người còn vẽ nên một tương lai xán lạn về một nước Việt Nam thống nhất từ Nam chí Bắc do chính người Việt Nam điều hành hoặc cai trị. Ấy thế mà sự thật lại quá phũ phàng như người ta thấy đó. Nhưng khi người ta thấy được điều này thì mọi sự đã muộn màng rồi, không làm sao có được cơ hội lần thứ nhì để làm lại cuộc đời nữa.
Trái lại, quân và dân Ukraine biết chắc như đinh đóng cột rằng họ chỉ có một chọn lựa là chiến đấu hoặc chết dưới tay quân thù. Và đó chính là sức mạnh vô song giúp họ vươn lên từ các thất bại trong những ngày đầu của cuộc chiến chống quân Nga dưới quyền nhà độc tài Putin cho tới chiến thắng dường như đang ló dạng kể từ ngày hôm nay.
Thay lời kết
Trong tình thế hiện nay, thật là hết sức khó đoán về kết cục của cuộc chiến tranh Nga-Ukraine, bởi vì tình hình còn tùy thuộc nhiều vào hai yếu tố quan trọng: một là liệu Hoa Kỳ và Liên Âu có đủ ý chí kiên cường để yểm trợ đến cùng cho cuộc chiến đấu chống quân xâm lược Nga của quân và dân Ukraine hay không, và hai là liệu nhà độc tài Putin có vì quẫn trí mà sử dụng luôn cả võ khí nguyên tử đánh vào Ukraine hoặc tấn công luôn cả các nước Liên Âu như ông từng hăm dọa hay không.
Các binh sĩ Ukraine tự tin trong cuộc chiến tại Izyum, miền Đông Ukraine, chống lại quân xâm lược Nga. (Hình: Anatolii Stepanov/AFP via Getty Images)
Ngoài ra, một yếu tố khác cũng cần phải được xét đến, đó là quân và dân VNCH thật sự đã quá mỏi mòn sau gần hai thập niên chiến đấu chống cả Khối Cộng Sản Quốc Tế, trong khi quân và dân Ukraine thì chỉ mới bị thử lửa có hơn nửa năm trời nay, và con đường chiến đấu cho cuộc sinh tồn của của họ vẫn còn dài lắm, chưa biết ngày nào mới kết thúc.
Có điều, vì lịch sử cho thấy hễ cái ác chiến thắng nơi đâu thì nó sẽ ở luôn nơi đó, và sẽ hết sức khó khăn, nếu không nói là vô phương, để trục nó đi – như hiện trạng tại Hoa Lục, Bắc Hàn, Việt Nam, và cả Iran lẫn Syria cho thấy.
Vì vậy, nay Ukraine cùng với Hoa Kỳ và Liên Âu chớ có bao giờ để cho nước Nga của nhà độc tài Putin đánh chiếm được Ukraine và sáp nhập nước cộng hòa này vào Liên Bang Nga, y như dưới thời Cộng Sản Liên Xô hồi thế kỷ trước vậy.
Vann Phan (17.09.2022)
Người Việt
***
NHÂN ĐỌC BÀI VIẾT “VÌ SAO UKRAINE THÀNH CÔNG CHỐNG QUÂN XÂM LƯỢC CÒN VNCH THẤT BẠI” CỦA TÁC GIẢ VANN PHAN TRÊN NHẬT BÁO NGƯỜI VIỆT.
Chu Tất Tiến
(Xin minh định: Bài viết dưới đây không nhằm phản bác bài nghiên cứu khá công phu của tác giả Vann Phan, chỉ muốn trình bầy thêm vài khía cạnh khác, nếu có điều chi sơ suất, xin được sự lượng thứ).
Ngày Chủ Nhật 18 tháng 9 năm 2022, đọc Nhật Báo Người Việt, thấy bài viết của Tác Giả Vann Phan, một ký giả lão thành, so sánh lý do tại sao người Việt Nam lại thua Cộng Sản trong khi Ukraine lại đang trên đà thắng thế cựu Cộng Sản Putin. Cá nhân tôi, một cựu tù nhân chính trị, rất ngưỡng mộ Nhà Báo Vann Phan vẫn luôn lưu tâm đến cuộc chiến Việt Nam cũng như từng suy nghĩ về vận mệnh quốc gia. Tuy nhiên, một sự thực phũ phàng cho thấy hiện nay, những người còn ưu tư đến mệnh nước thì quá ít. Thế hệ trực tiếp tham gia vào việc xây dựng Việt Nam Cộng Hòa bây giờ đã không còn năng động như xưa, một phần vì tuổi tác, bệnh hoạn, phần khác vì nhận thấy rằng vận nước đã an bài, không có một hy vọng nhỏ nhoi nào lật lại được thế cờ nữa cho nên đã đổi chiều, thay đổi hẳn quan niệm, không còn phân biệt ranh giới Quốc-Cộng. Một số khác đang gỡ gạc lại thời gian hưởng thụ đã bị cuộc chiến lấy mất, nên lao đầu vào làm Tiền, hoặc tình nguyện đi làm đầy tớ cho những tay tài phiệt có tiền, bất kể họ là Cộng Sản hay nằm vùng, miễn là có chút cháo cuối đời. Đại đa số thì an phận với tiền hưu trí, chấp nhận những ngày tháng còn lại ngắn ngủi để tìm vui trong gia đình hay gặp gỡ những đồng đội, đồng môn cũ để ôn lại những ngày tháng huy hoàng xa xưa. Vì thế những bài viết của tác giả Vann Phan là ngọn lửa nhỏ đang cố vươn lên tạo ánh sáng cho những căn phòng nhỏ hẹp nhưng ấm áp tình người. Xin một lần nữa, cám ơn tác giả.
Nhưng, trên bình diện một cựu chiến sĩ, xin mạn phép góp ý với Nhà Báo Vann Phan về vài lý do khiến cho Việt Nam Cộng Hòa thất thủ.
Theo nhà báo Vann Phan (những đoạn viết xiên và đậm):
Thứ nhất, tuy Quân Lực VNCH, xét về mặt vũ khí và trang bị – cũng như đặc biệt là về Không Quân và Hải Quân cùng với các lực lượng tổng trừ bị như Biệt Động Quân, Thủy Quân Lục Chiến và Nhảy Dù được đánh giá là mạnh hơn các lực lượng Cộng Sản Bắc Việt, nhưng hầu hết đều ở thế phòng thủ chứ không chủ động tấn công ra miền Bắc để tiêu diệt lực lượng địch tận gốc rễ. Không chỉ vậy, VNCH còn bị dàn trải ra quá mỏng trên bốn Vùng Chiến Thuật nên sức mạnh bị suy giảm so với các lực lượng Cộng Sản thường ở thế chủ động tấn công.
Nhận xét này khá đúng như hầu hết các trận đánh lớn: An Lộc, Bình Long, Long Khánh, Tống Lê Chân, quân ta chỉ phòng thủ và chống lại các cuộc tấn công của CSBV. Nhận xét của nhà báo Vann Phan về việc quân đội VNCH bị dàn trải mỏng cũng khá chính xác. Vì chủ trương Nhân Bản, không muốn tận lực thu tập toàn bô thanh niên nam, nữ đi đánh trận để gây đau thương cho hàng triệu gia đình, nên vẫn có nhiều trường hợp miễn dịch hoặc hoãn dịch. Do đó, số quân nhân của VNCH không đủ để bảo vệ toàn bộ miền Nam. Nhưng thực tế cho thấy ngoài việc phòng thủ, Quân Lực VNCH vẫn chủ động tấn công các đơn vị Cộng Sản, như các cuộc Hành Quân Lam Sơn, các trận đánh vào Cục R, các trận đánh sang Campuchia, trận Hố Bò, trận Ấp Bắc và hàng chục cuộc hành quân Toàn Thắng khác. Các lực lượng di động như Thủy Quân Lục Chiến, Nhẩy Dù, Biệt Động Quân được sự phối hợp của Pháo Binh, Hải Quân, Giang Đoàn, và Không quân vẫn luôn TÌM VÀ DIỆT địch không ngừng nghỉ.
Thứ nhì, vì quân và dân VNCH tùy thuộc hầu như tuyệt đối vào các nguồn viện trợ về quân sự và kinh tế của Hoa Kỳ cho nên khi bị Hoa Kỳ bỏ rơi thì không còn đủ sức đứng vũng được nữa. Nhận xét này chưa hẳn đúng, vì từ 1954, nhiều quốc gia Âu Châu đã viện trợ cho Việt Nam, tuy không nhiều. Nhưng sau khi Hoa Kỳ chủ động ra lệnh giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm, người cương quyết không cho quân Mỹ vào Việt Nam, (theo Tổng Thống Diệm: Nếu để quân Ngoại Quốc vào thì miền Nam mất chính nghĩa!) thì người Mỹ cũng đương nhiên làm chủ tình hình viện trợ cho Việt Nam, quản lý chặt chẽ các nguồn viện trợ từ Liên Hiệp Quốc, từ các nước đồng minh châu Á, châu Âu. Trong cuộc chiến Việt Nam, đã có các đội quân Úc châu, Thái Lan, Đại Hàn đóng tại Việt Nam trực tiếp giao chiến với Việt Cộng trong khi Singapore lo cung cấp y tế. Khi Hoa Kỳ rút, thì Mỹ cũng ra lệnh cho tất cả rút theo, để quân đội VNCH một mình chống lại hai siêu cường: Liên Sô và Trung Cộng cùng các nước Cộng Sản anh em.
Thứ ba, trước năm 1975, một phần đáng kể dân chúng miền Nam tự do không chịu tin rằng nếu đất nước bị rơi vào tay Cộng Sản thì đó là một thảm họa không có gì cứu vãn nổi, chỉ vì các thành phần này không hiểu biết gì về chủ nghĩa Cộng Sản mà lại còn bị các luận điệu tuyên truyền của Cộng Sản lừa phỉnh ngay từ khi diễn ra cuộc Chiến Tranh Đông Dương chống Pháp từ 1946 đến 1954. Đã thế, một số không nhỏ các nhà trí thức tại miền Nam tự do lại “sinh tật” phản chiến theo cái kiểu chống lại cuộc chiến tranh tại Việt Nam nhưng chỉ chống VNCH và chống Mỹ mà thôi.
Đồng ý 1à có một số ngu ngơ về chính trị, thiếu hiểu biết về Cộng sản nên lập ra “Thành Phần thứ Ba”, gồm các tay phản chiến. Nhưng các lực lượng phản chiến này đều bị Chính phủ đập tan, cho nên không ảnh hưởng mấy đến cuộc chiến. Ngay cả cái gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam do một số nhân sĩ miền Nam lãnh đạo, nhưng số những nhân sĩ ngu ngốc này chỉ đếm đầu ngón tay và cái gọi là MTGPMN này lại hoạt động bên ngoài lãnh thổ: ở Cambốt! Ngoài ra thì đa số là dân vùng xa xôi, nghèo khổ, nên đã đi theo Cộng sản. Khi hiệp định Geneve ký kết, du kích miền Nam phải tập kết ra Bắc. Nhưng trước khi đi tập kết, du kích đã tập họp dân làng lại và buộc các thiếu nữ phải lấy du kích, rồi ép phải có thai trước khi du kích miền Nam ra đi. Mục đích của Việt Cộng là để cho các bà vợ có chồng đi tập kết thành gián điệp cho chúng, thành lực lượng nằm vùng yểm trợ cho cán binh Cộng Sản gốc miền Nam khi chúng lén lút trở về miền Nam, móc nối với vợ, con mà chúng đã bỏ lại từ nhiều năm. Điều chắc chắn là với tình nghĩa vợ chồng, những người Mẹ, người vợ sẽ trở thành lực lượng du kích, gián điệp, nằm vùng, sẽ nuôi chúng dưới hầm để chờ cơ hội bung lên. Điều quan trọng nữa, là khi di cư, trong số hơn 1 triệu người miền Bắc vào miền Nam có rất nhiều bà con ruột thịt ở bên kia chiến tuyến. Nên khi chúng lén vào Nam, thì vì tình cảm, mà một số người miền Nam không báo cáo sự hiện diện của gián điệp Cộng Sản tại miền Nam. (Vụ Án Dân Biểu Trần Ngọc Châu che dấu anh ruột là Cộng sản Trần văn Hiền!). Quan trọng hơn cả là CSVN lợi dụng Tự Do Tôn Giáo của miền Nam mà cài, cắm cán bộ thành Sư sãi chiếm chùa làm nơi ẩn náu, (riêng Thích Trí Quang là cán bộ Việt Cộng nằm vùng từng đi họp tại Cục R ở Cambốt.) Năm 1968 và 1975, hầu hết các lực lượng du kích nổi lên từ số lớn các chùa chiền ở ngoại ô. Nói chung, không có việc dân chúng miền Nam “không chịu tin rằng nếu đất nước bị rơi vào tay Cộng Sản…” Dân miền Nam chống đối CS đến cùng, cho nên trong tất cả các trận đánh lớn, nhất là năm 1975, dân chúng ùn ùn bỏ nhà cửa, ruộng vườn mà gồng gánh theo quân Miền Nam.
Thứ tư, trong thời gian miền Nam tự do phải chiến đấu để tự vệ chống lại cuộc xâm lược của Cộng Sản Bắc Việt, chỉ có chưa đầy phân nửa các quốc gia trên thế giới lên tiếng ủng hộ chính nghĩa của chính phủ VNCH, bởi vì họ cứ u mê tin rằng chủ nghĩa Cộng Sản là tuyệt vời. Đã thế, các phong trào phản chiến từ Hoa Kỳ cho tới miền Nam Việt Nam đã khiến Hoa Kỳ phải vội vã rút quân ra khỏi chiến trường miền Nam Việt Nam, đồng thời cũng làm suy nỗ lực chống Cộng của dân chúng và phần nào ảnh hưởng tới tinh thần chiến đấu của người lính Cộng Hòa.
Nhận xét này thiếu sót nhiều. (Xin nhà báo chứng minh là bao nhiêu quốc gia u mê tin rằng chủ nghĩa Cộng Sản là tuyệt vời.)
Thực tế: Chỉ có những nước theo quỹ đạo của Cộng Sản mới buộc tin theo Cộng Sản: Nga và 14 quốc gia Trung Á thuộc Liên Sô, Trung cộng, Tiệp Khắc, Cuba, Bắc Hàn, Bắc Việt, Thế thôi! Còn lại hơn 100 quốc gia khác thuộc Thế Giới Tự Do kinh hãi chế độ Cộng Sản còn hơn sợ ma quỷ. Sách chống Cộng tràn lan trên thế giới.
Tuyệt đối không có vấn đề CSVN làm ảnh hưởng tới tinh thần chiến đấu của người linh VNCH. Việc Hoa Kỳ rút quân ra khỏi Viêt Nam đã được chuẩn bị từ thời Kenedy, ông ta tin rằng nếu Mỹ đổ quân ào ạt vào Việt Nam, chỉ đánh Cộng Sản vài trận rồi rút quân về, cho nên khi gặp chống đối từ Tổng Thống Diệm, ông ta đã mướn một số sĩ quan hèn hạ giết chết vị Tổng Thống anh hùng này. Lyndon thì muốn diệt Cộng Sản đến người cuối cùng. Ông ta đã tăng quân số Mỹ ở Việt Nam từ 16,000 lên 500,000, nhưng rồi chán chính trị, nên đã không tái cử. Nixon là con cáo già chính trị, ông này thấy nếu bảo vệ cho VNCH chỉ được thị trường 22 triệu người, trong khi thị trường Trung Cộng có tới 1 tỷ người, nên không muốn thí quân thêm, đồng thời phong trào phản chiến ở Mỹ tăng mạnh sau vụ Mỹ Lai, và vụ Tướng Loan bắn chết tên du kích làm Nixon quyết định bán đứng miền Nam cho Cộng Sản. Nixon đã sai Kissinger, một con cáo già Do Thái, sang vận động nối lại quan hệ với Trung Cộng, và buộc VNCH phải đầu hàng Cộng Sản với bản Hiệp Định Paris cho miền Bắc để quân tại chỗ, cho lính Mỹ và Thế Giới Tự Do rút đi trong danh dự. Nixon đã hăm dọa TT Nguyễn Văn Thiệu hai việc: cúp hết viện trợ, và giết ông Thiệu qua một thông điệp nhắn TT Thiệu nên noi gương cố TT Diệm! Nghĩa là nếu TT Thiệu không ký thì Mỹ sẽ giết như đã giết TT Diệm. Vì sợ bị giết như TT Diệm, nên TT Thiệu sử dụng những tướng bất tài như tướng Toàn, trong khi lại giết Tướng Hiếu, và để những Tướng tài giỏi ngồi chơi xơi nước. Vụ Tướng Đỗ Cao Trí bị nổ bom chết, dư luận cho rằng cũng chính là người Mỹ làm. Trong trận Mậu Thân, Mỹ đã cho một tên lái trực thăng xả súng bắn chết môt loạt sĩ quan cấp tá thân cận Tướng Kỳ.
Dù cho thế nào chăng nữa, nỗ lực chống Cộng của dân chúng không hề suy giảm như nhà báo Vann Phan viết. Vụ tái chiếm Cổ Thành là một chứng minh rõ rệt tinh thần chiến đấu của quân VNCH, cũng như các trận An Lộc, Bình Long và Long Khánh, quân VNCH đã thắng lực lượng Cộng Quân nhiều gấp 4 lần với vũ khí tinh xảo của thế giới Cộng Sản yểm trợ. Sau đó, Chính phủ Nixon trắng trợn phản bội miền Nam khi không thi hành hiệp định là viện trợ vũ khí cho miền Nam trên phương diện “Một đổi Một”. Nixon không cho đổi những vũ khí hư hỏng. Tại trận Hoàng Sa, Hạm Đội thứ Bẩy của Mỹ đứng nhìn hải quân VNCH chiến đấu trong tuyệt vọng, mà không có hành động gì, ngay cả việc vớt các thủy thủ đắm tầu.
Thứ năm, quân và dân VNCH bị Đồng Minh Mỹ dần dà cắt đứt viện trợ quân sự và kinh tế sau khi Hiệp Định Paris được ký kết vào năm 1973. Nhận xét này rất đúng, không có điều chi để thảo luận. Quân đội VNCH sau hiệp định Paris chiến đấu với súng mà không có đạn. Hải Quân không có xăng dầu, Không Quân không có xăng bay. Đại bác đứng trơ như cổ thụ. Một Sĩ quan chỉ huy mặt trận đã ôm mặt khóc khi nhìn thấy Việt Cộng chuyển quân đi cách chứng 200, hò hét um sùm mà không thể đánh, vì không có đạn.
Thứ sáu, vì trong thời Chiến Tranh Việt Nam, miền Bắc và miền Nam đều nói cùng một ngôn ngữ là tiếng Việt, ít ai chịu tin rằng Cộng Sản Bắc Việt là đội quân xâm lược đánh vào miền Nam Việt Nam để mà tận tình yểm trợ cho VNCH giữ vẹn nền độc lập của mình. Điều này hoàn toàn không đúng. Có thể nói từ trẻ em đến người lớn đều biết rằng Cộng Sản miền Bắc được yểm trợ tận tình của Nga, Tầu, xâm lăng Việt Nam, vì những trận pháo kích vào nhà dân thường, pháo kích Phú Lâm, pháo kích ngoại ô Sàigòn, Cộng Sản pháo kích giết thường dân trên Đại Lộ Kinh Hoàng, các vụ đặt mìn, đốt xe đò trên quốc lộ, các vụ bắt cóc người, giết dân lành từ các chuyến xe đò, cắt cổ mổ bụng giới chức xã ấp, chặt đầu treo trên cọc…Trên hết là các cuộc đấu tố, sửa sai của Cộng Sản miền Bắc đã giết chết hơn 500,000 người thì không ai có thể quên được. Do đó, trong tất cả các vụ mà quân miền Nam phải bỏ đất mà đi vì thiếu vũ khí, dân chúng ùn ùn chạy theo, không cản nổi. Trận Mậu Thân làm chứng cho việc này chính xác nhất! Dân chúng bỏ nhà cửa, chạy theo quân VNCH đông không thể đếm. Nhắc đến HUẾ MẬU THÂN là nhắc đến hơn 6000 dân thường bị Cộng Sản giết hại bi thảm. Sinh viên, học sinh, giáo sư bị lùa đi vùi xác người xong lại bị Việt Cộng đập cuốc vào đầu giết chết. Ba Giáo Sư Ngoại Quốc đến giúp Việt Nam cũng bị chúng bắn hàng tràng đạn. Nhiều hố chôn người cho thấy dân bị xỏ dây kẽm vào tay, lôi đi rồi bị đập chết như chó dại. Cảnh tượng hàng ngàn quan tài xếp hàng làm cho cả miền Nam chẩy nước mắt khóc theo dân Huế. Những bài báo, sách sử đã ghi lại sự tàn ác của CSVN, đời đời không quên! Làm sao lại có thể nói rằng “ít ai chịu tin rằng Cộng Sản Bắc Việt là đội quân xâm lược”? Có thể nói nhận định này hơi lạ, đến ngày hôm nay, mới thấy một nhà báo tuyên bố ngược đời và có lợi cho Cộng Sản như thế!
Thứ bảy, Quân Lực VNCH tuy hùng mạnh nhưng được tổ chức rất cồng kềnh và phải tùy thuộc nặng nề vào nguồn tiếp liệu quân sự khổng lồ mới đối phó được với cuộc chiến tranh du kích do Cộng Sản phát động. Vì quân đội này được huấn luyện và trang bị để đánh giặc theo kiểu “nhà giàu” y như quân đội Mỹ, nên khi bị Mỹ cúp viện trợ quân sự thì quân đội đó không thể tiếp tục chiến đấu được nữa. Ngoài ra, VNCH không hề có cơ hội phát triển kinh tế, kiến thiết hay mở mang gì được giữa lúc đất nước đang phải hứng chịu cuộc chiến tranh phá hoại và tiêu hao suốt hai thập niên kể từ thời lập quốc cho đến ngày mất nước.
Thế nào là tổ chức “cồng kềnh”? Nhận định này khiến người đọc nghi ngờ sự hiểu biết của nhà báo, hoặc có thể nhà báo cư ngụ ở nước ngoài trong suốt cuộc chiến Việt Nam, nên không biết gì về quân đội VNCH. Cá nhân tôi là một Sĩ Quan tốt nghiệp Trường Lục Quân Hoa Kỳ với cấp bậc Thiếu Úy Quân Đội Mỹ (1967-1968), đã từng học về vũ khí của Mỹ, từng xem những cuộc biểu diễn hỏa lực hùng mạnh của Mỹ, để rồi thấy quân đội VNCH chỉ là một công cụ cho Mỹ thí nghiệm tinh thần chiến đấu mà thôi, vì những vũ khí tối tân của Mỹ đều không có mặt tại chiến trường miền Nam!
Trận đánh đầu tiên năm 1968 là điển hình cho sự giả dối của Ngũ Giác Đài. Khi tôi còn là Sinh Viên Sĩ Quan Mỹ, ngày ngày đi “ắc ê” trong trường, chúng tôi thao diễn bằng súng trường M.14 có tầm bắn xa hơn 1000 mét như súng trường M1, nhưng nếu kéo hai chân chống xuống, và bắn bằng băng đạn 20 viên, thì M-14 biến thành súng Trung Liên, lợi hại vô cùng. Giả sử như Mỹ đã cung cấp cho VNCH súng M.14 từ trước 1968 thì làm sao mà Việt Cộng dám tấn công? Khi tập trận ở các vùng đồi núi, chúng tôi lại dùng súng M.16. Mỗi lần đi tập trận, Sinh Viên Sĩ Quan phải mang theo 600 viên đạn M-16 và phải bắn cho hết. Trong lúc đó, tại Việt Nam, những ngày đầu mặt trận Mậu Thân, quân đội VNCH chới với vì Aka 47 bắn liên thanh mà quân mình vẫn xài M.1, bắn tắc bọp từng viên với băng đạn 8 viên. Các sĩ quan chỉ huy vẫn chỉ có Carbin M.2. Các đại đội vẫn được trang bị Bazooka, Súng cối 60 ly, và các loại súng từ thời thế chiến thứ 2. Sau khi thấy tình hình bất lợi cho VNCH, Mỹ mới viện trợ AR-15, loại súng bắn chậm, hay kẹt đạn, và hay nổ nòng nếu dính nước! Mãi sau mới cung cấp M-16 khi trận chiến gần tàn.
Ngoài M.14 ra, Mỹ dấu, không viện trợ cho Việt Nam những loại vũ khí sau đây:
-Súng cối 4.2, (102 ly) viên đạn to gần bằng đạn đại bác 105 ly, bắn vòng cầu, qua nóc nhà, xa 2900m mà rất chính xác. Sinh viên Mỹ chúng tôi mỗi thằng phải bưng bằng 2 tay một quả, và phải bắn thực tập 6 quả liên tiếp! (Một Đại đội Sinh viên có 140 mạng, mỗi mạng bắn 6 quả, thì chỉ thực tập đã bắn 840 quả chơi! Mà Trường Lục Quân có tới 9 Tiểu đoàn, mỗi Tiểu Đoàn 4 Đại Đội. Như vậy có tới hơn 5000 quả đạn 4.2 được bắn chơi, trong khi Việt Nam không có lấy một quả!) Loại súng cối này có thể đặt trên thiết giáp M.113 di chuyển khắp địa hình! Tưởng tượng mỗi Tiểu Đoàn bộ binh có một khẩu súng cối 90 ly này thì Việt Cộng chạy tán loạn.
-Đại bác không giật 105 ly gắn trên xe díp, chạy băng băng trong rừng, chuyên chống chiến tranh du kích, bắn trực xạ. Một quả có thể tiêu diệt nguyên một trung đội địch.
-Xe tăng 4 nòng 90 ly! Bắn “tằng, tằng, tằng, tằng” liên tiếp hàng chục quả thì môt tiểu đoàn Việt Cộng biến thành lính giấy!
-Súng vác tay 90 ly không giật, do hai quân nhân sử dụng, bắn tung thiết giáp!
-Súng phun lửa bằng tay, M-202, chuyên tiêu diệt các cây đại liên núp trong hầm bê tông!
-Hỏa tiễn cầm tay M-202A1: có 4 nòng, có thể bắn đạn lửa, đạn chống biển người, đạn chống xe tăng T-54. Loại đạn chống tăng là đạn lõm, khi bắn trúng xe tăng, sẽ dính vào thành xe, rồi mới phóng quả đạn thứ hai xuyên phá vào trong lòng xe tăng, nên cho dù xe tăng T-54 của Liên Sô có thép dầy bao nhiêu cũng xụm.
-Kinh khủng nhất là Xe Tăng bắn Lựu đạn M-79, tốc độ 400 quả môt phút, nhanh như súng liên thanh, nhưng mỗi quả lựu đạn M-79 này có tầm sát thương 8 mét! 400 quả có thể làm thành bình địa một khu vực gần 4000 mét vuông! Nghĩa là chỉ cần 1 phút là 1 tiểu đoàn địch bốc hơi, cho dù núp dưới hầm chữ A, vì lựu đạn M-79 nổ chụp, nổ vòng cầu, nổ chạm đất, miểng văng khắp nơi.
-ĐIỀU VÔ CÙNG QUAN TRỌNG LÀ PHÁO BINH! Suốt cuộc chiến, Quân đội VNCH chỉ có đại bác 105 ly, tầm bắn 11-12 cây số; đại bác 155 ly, tầm bắn 14 cây số, cả hai đều cồng kềnh, nặng nề mà tầm bắn ngắn củn. Đối lại, CSVN được Liên Sô và Đông Đức viện trợ những đại bác 122 ly bắn xa hơn 40 cây số. Chỉ cần nhìn vào tầm bắn của đại bác hai bên đã thấy VNCH thua xa về đại pháo rồi. Trong trận chiến, bên nào có súng bắn xa hơn là thắng. Đại bác VNCH chỉ bắn dọa trước mặt Việt Cộng, trong khi chúng đứng ở xa, bắn trúng đầu mình, bể sọ! Hơn nữa, CSVN được trang bị hỏa tiễn 122 ly cầm tay! Một người có thể đeo trên vai 2 quả hỏa tiễn này, vì không có chân càng khổng lồ như đại bác 105 ly. Khi gần tới địa điểm tấn công, Việt Cộng có thể dàn 5 sáu quả hỏa tiễn này một hàng rồi cho kích hỏa một loạt vào một đồn của quân VNCH, phá tan nát các công sự. Sau các trận Hà Lào, Lam Sơn, khi quân ta bị quân Cộng tấn công bằng pháo binh 122 ly, bằng các dàn 12 ống phóng Hỏa Tiển Katyusha, và phải rút lui, thì Mỹ mới chuyển sang Việt Nam loại pháo 175 ly bắn xa 45 cây số. Thực tế, chiến trường Việt Nam không thích hợp loại này vì dàn xe chứa pháo này cồng kềnh, không thể di động trong địa hình miền Nam, không thể chạy qua cầu vì cầu sẽ sụp, mà chỉ đứng tại trung tâm yểm trợ chiến lược mà thôi. Đạn 175 lại rất nặng, phải 6 người khiêng, bỏ lên một giàn máy kéo tới đúng lỗ nòng rồi tống vào, thao tác chậm rì, y như một anh khổng lồ Một Mắt trong chuyện phiêu lưu của Sinh Bá. Phải chi VNCH được loại pháo 155 ly mà bắn xa hơn 40 cây số, như hiện nay Mỹ yểm trợ Ukraine, thì Việt Cộng tan hàng từ lâu.
Thứ tám, dân chúng VNCH tuy dấn thân vào cuộc chiến tranh tự vệ để chống lại cuộc xâm lược của Cộng Sản Bắc Việt nhưng trong lòng vẫn “mơ hồ” về một tương lai nào đó cho đất nước nếu rủi phe địch chiến thắng, do bởi quốc tế không ngớt tung ra các chiêu bài và giải pháp chẳng đâu vào đâu cả, như thành lập chính phủ liên hiệp, giữ quy chế trung lập, thực hiện đường lối hòa hợp, hòa giải dân tộc… lung tung cả lên. Thậm chí, nhiều người còn vẽ nên một tương lai xán lạn về một nước Việt Nam thống nhất từ Nam chí Bắc do chính người Việt Nam điều hành hoặc cai trị .
Nhận định này quá xa thực tế và có lợi cho CSVN khi Việt Cộng tung ra chiêu bài: CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC! Nghĩa là theo ý của Việt Cộng, miền Nam bị Mỹ cai trị, nên xin miễn bàn.
Tóm lại, quân đội Việt Nam Cộng Hòa thua trận, mặc dù chiến đấu như sư tử, nhưng mầm mống thua trận đã có từ thời Kenedy, khi ông này giết chết Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, rồi tạo nên một loạt các chính phủ bù nhìn điểu khiển bởi mấy ông tướng ham tiền, phản chủ. Cũng mấy ông tướng phản bội này đã hủy “Ấp Chiến lược”, một phương pháp vô cùng hiệu nghiệm là tách Việt Cộng ra khỏi dân chúng, để sau khi “Ấp Chiến Lược” bị phá, thì Việt Cộng tràn vào như ong vỡ tổ. Từ đó mới có cuộc chiến tranh trận địa, không còn là chiến tranh du kích nữa, rồi lại bị đồng minh phản bội, dẫn đến sự thất bại của một chế độ. Dĩ nhiên, không thể không nói đến “Lỗi của Mình!”. Vài Tướng, Tá thiếu tư cách, bất tài lại mắc bệnh tham nhũng. Bên Hành Chánh, một số công chức cao cấp cũng như một số Dân Biểu, Thượng Nghị Sĩ lem nhem, chạy chức chạy quyền. Còn đa số các vị quan lại hành chánh đều làm việc theo kiểu “sáng vác ô đi, tối vác về”, bên cạnh những Công chức sống đời Lý Tưởng, một lòng một dạ với đất nước. Vì thế, các vấn đề tham nhũng trong quân đội và hành chánh không ảnh hưởng gì đến việc chiến đấu của quân đội. Quân nhân chúng tôi không chiến đấu vì các quan quyền, không hy sinh vì thủ lĩnh, không hoạt động vì Đảng phái, mà chiến đấu vì Lý Tưởng Tự Do, nên bất chấp những chuyện bất thường nho nhỏ xẩy ra chung quanh, chúng tôi vẫn xông lên, chấp nhận hy sinh cho một nước Việt Nam yêu quý có hơn 4000 năm lịch sử oai hùng.
Mong anh linh của các vị Vua lập quốc và kiến quốc, và hàng triệu triệu chiến sĩ, anh hùng, anh thư Việt Nam phù hộ cho có ngày đất nước chúng ta lại được Tự Do, Độc Lập, và Hạnh Phúc thực sự.
Lính già Chu Tất Tiến. (19.09.2022)