„Việt Nam vẫn tồn tại những vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trên cả hai bình diện pháp lý lẫn thực tế“
Thiện Ý
Chính quyền Việt Nam công bố sách trắng tôn giáo ngày 9/3/2023. Photo Truyen hinh Thong Tan VNews.
Theo tin tổng hợp giới truyền thông, sau hơn 16 năm kể từ năm 2007, khi được Hoa Kỳ đưa ra khỏi danh sách CPC trong giai đoạn 2004-2005, hôm 9/3/2023 vừa qua, nhà đương quyền Việt Nam đã phát hành sách trắng tôn giáo, trong đó “khẳng định các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật”, và rằng “Nhà nước không phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo”.
Thế nhưng các nhóm tôn giáo độc lập lại coi động thái này là “bức bình phong” nhằm che đậy các vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo kéo dài tại Việt Nam, đã là nguyên nhân khiến bộ ngoại giao Hoa Kỳ đưa Hà Nội vào danh sách cần được theo dõi đặc biệt (Special Watch List – SWL).
Vậy thì tại Việt Nam bao lâu nay có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo không? Trả lời cho câu hỏi này không đơn giản chỉ bằng một từ “có” hay “không”. Vì tại Việt Nam quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo về mặt pháp lý cũng như thực tế vừa có lại vừa không.
Vì vậy, theo thiển ý, câu trả lời tổng quát cho câu hỏi này một cách khách quan là: Tại Việt Nam có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trên bình diện pháp lý cũng như thực tế; nhưng vẫn còn bị hạn chế và có nhiều vi phạm. Chính vì vậy nên thực tế thường có các cuộc đấu tranh của người dân có tín ngưỡng, tôn giáo (thể nhân) và các giáo hội (pháp nhân) trong nước; và sự tố cáo, lên án, chế tài của quốc tế, đối với các vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhà đương quyền Việt Nam. Bài viết này lần lược trình bày:
I – Tại Việt Nam có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo song vẫn có những vi phạm các quyền này trên cả hai bình diện pháp lý cũng như thực tế thế nào?
1 – Trên bình diện pháp lý, Hiến pháp và Luật tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam đều quy định quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, như sau:
Điều 24 Hiến pháp 2013, quy định quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo như:
– Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật.
– Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
– Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật.
Quyền tự do hiến định này đã được quy định chi tiết tại Điều 6 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo 2016, như sau:
– Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào.
– Mỗi người có quyền bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo; thực hành lễ nghi tín ngưỡng, tôn giáo; tham gia lễ hội; học tập và thực hành giáo lý, giáo luật tôn giáo.
– Mỗi người có quyền vào tu tại cơ sở tôn giáo, học tại cơ sở đào tạo tôn giáo, lớp bồi dưỡng của tổ chức tôn giáo. Người chưa thành niên khi vào tu tại cơ sở tôn giáo, học tại cơ sở đào tạo tôn giáo phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.
– Chức sắc, chức việc, nhà tu hành có quyền thực hiện lễ nghi tôn giáo, giảng đạo, truyền đạo tại cơ sở tôn giáo hoặc địa điểm hợp pháp khác.
– Người bị tạm giữ, người bị tạm giam theo quy định của pháp luật về thi hành tạm giữ, tạm giam; người đang chấp hành hình phạt tù; người đang chấp hành biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc có quyền sử dụng kinh sách, bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo.
Thế nhưng trên bình diện pháp lý này, vẫn có những quy định hạn chế quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo, như những quy định vi phạm quyền độc lập tự chủ của các giáo hội và phân biệt đối xử các giáo hội độc lập.
2 – Trên bình diện thực tế, nhìn tổng thể, ai cũng thấy người dân đã được tự do thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo thể hiện qua các hoạt động tín ngưỡng cá nhân hay tập thể tín đồ và chức sắc các tôn giáo, các giáo hội được tự do phát triển nhiều mặt. Tuy nhiên, đó đây vẫn đã có những vi phạm qua nhiều vụ sách nhiễu, đe dọa, bắt cầm tù các cá nhân tín đồ và các chức sắc các giáo hội độc lập như Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất, Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo tự chủ, Giáo hội Cao đài độc lập, một số giáo phái Tin Lành Tây Nguyên, không được nhà nước cho phép hoạt động… Nghĩa là, đối với một số cá nhân tín đồ, chức sắc các giáo hội mà các hoạt động tôn giáo của họ bị nhà cầm quyền chính trị hóa như là có mục đích chống chế độ, cần trấn áp, bắt bờ tù đày để bảo vệ an toàn cho chế độ. Nhà cầm quyền giải thích các hoạt động tôn giáo này như là vi phạm pháp luật, nên phải bị trừng phạt theo pháp luật, chứ không chấp nhận sự tố cáo là vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
II – Tại saoViệt Nam vẫn tồn tại những vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trên cả hai bình diện pháp lý lẫn thực tế?
1 – Vì trên bình diện pháp lý, nhà đương quyền Việt Nam vẫn có những quy định dưới luật can thiệp, kiểm soát công việc tổ chức, điều hành, nội bộ các giáo hội. Đó là sự vi phạm thô bạo quyền độc lập, tự chủ của các giáo hội và quyền tự do tín ngưỡng của cá nhân các tín đồ. Tỷ như quy định các giáo hội phải trình báo (xin phép trước) cơ quan quản lý tôn giáo của nhà nước (Ban tôn giáo chính phủ) danh sách, lý lịch của các tu sinh, các chức sắc tôn giáo khi đào tạo, phong chức, bổ nhiệm cai quản các giáo phận… Tất cả chỉ được thực hiện sau khi được cơ quan chức năng quản lý nhà nước xét duyệt cho phép.
2 – Vì trên bình diện thực tiễn nhà cầm quyền Việt Nam đã vi phạm các quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo qua các hành động thường xuyên đe doa, bắt bớ giam cầm các tín đồ và các chức sắc tôn giáo sinh hoạt độc lập, không được nhà cầm quyền cấp phép hoạt động. Vì chủ quan cho rằng cá nhân các tín đồ hay chức sắc của các giáo hội độc lập này có tư tưởng chống chế độ; có thể lợi dụng các hoạt động tôn giáo quy tụ quần chúng chống và nhằm lật đổ chính quyền. Thực tế không phải như vậy, sở dĩ các tín đồ, cức sắc các giáo hội này không chống chế độ mà chỉ lên tiếng tố cáo nhà cầm quyền vi phạm quyền tực do tôn giáo, vì đã không được cấp phép hoạt động do định kiến của nhà cầm quyền. Đồng thời không chấp nhận gia nhập vào các giáo hội do nhà nước cho phép hoạt động (mà người dân gọi là các giáo hội quốc doanh). Như vậy là nhà nước Việt Nam đã có sự phân biệt đối xử giữa các tín đồ, các chức sắc tôn giáo và các giáo hội hoạt động tôn giáo độc lập không được cấp phép; với các tin đồ chức sắc và các giáo hội được cấp phép. Sự phân biệt đối xử này hiển nhiên là vi phạm pháp luật của chính chế độ (Hiến pháp và luật pháp) và luật quốc tế về tự do tín ngưỡng, tôn giáo (*).
Đúng như Hòa thượng Thích Vĩnh Phước, một thành viên thuộc Tăng đoàn Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, một tổ chức không được Hà Nội công nhận, trả lời VOA, rằng “thực chất các tổ chức tôn giáo độc lập tại Việt Nam luôn bị nhà nước đàn áp bằng cách này, cách nọ”.
Cùng quan điểm với Hòa thượng Thích Vĩnh Phước là Linh mục Đinh Hữu Thoại thuộc Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam, người đang bị chính quyền cấm xuất cảnh, có lẽ chỉ vì những bài giảng đạo tại nhà thờ bị coi là có tư tưởng chống chế độ XHCN và tố cáo các vi phạm nhân quyền, dân quyền trong đó có tự do tôn giáo tại Việt Nam. Linh mục Thoại đã nêu nhận định với VOA:
“…Việt Nam vừa ra sách trắng về tôn giáo, tôi nghĩ đây có lẽ là một cách để họ chống chế việc vừa rồi bị Bộ Ngoại giao Mỹ đưa vào danh sách SWL. Thực tế vấn đề tự do tôn giáo ở Việt Nam xưa nay vẫn vậy… Sách trắng với nội dung tuyên truyền mà xưa nay họ tuyên truyền rằng “Việt Nam có tự do tôn giáo”, “Nhà nước tôn trọng tự do tôn giáo”…”
“Họ có thể dùng quyển sách này để trưng ra cho thế giới thấy rằng Việt Nam có tự do tôn giáo như những gì họ viết. Nhưng thực tế thì không đúng như những gì họ viết”.
Linh mục thuộc Dòng Chúa Cứu Thế nói thêm rằng, nếu thế giới muốn tìm hiểu về tự do tôn giáo Việt Nam thì hãy gặp gỡ trực tiếp các nhóm tôn giáo độc lập không được chính quyền công nhận, chứ sách trắng này chỉ là “bức bình phong” che chắn mà thôi.
Từ An Giang ở đồng bằng sông Cửu Long, ông Lê Quang Hiển, Chánh thư ký Ban Trị sư Trung ương Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo Thuần túy, đồng thời là Thư ký Hội đồng Liên tôn, tổ chức tập hợp các nhóm tôn giáo độc lập ở Việt Nam, chia sẻ quan điểm với VOA hôm 13/3 về sự ra đời của sách trắng tôn giáo:
“Đối với nhà nước CHXHCN Việt Nam này, đó là lừa bịp thế giới, lừa bịp người dân trong nước, nói rằng “Việt Nam có tự do về tôn giáo, nhân quyền”, nhưng mà đó là một vấn đề quá xa vời vì dân chúng Việt Nam hiện tại sống ở đây hiểu thế nào “tự do tôn giáo” rồi!” Ông nói “Những giáo hội độc lập không theo nhà nước, như của chúng tôi đã có từ trước 1975, dù có xin phép, nhưng cũng không bao giờ được công nhận”.
III – Vậy nhà đương quyền Việt Nam cần làm gì để không còn người dân nào phải đấu tranh cho quyền tự do tôn giáo và quốc tế không còn quan tâm lên án, chế tài vì vi phạm quyền tự do tôn giáo?
Thiết tưởng nhà cầm quyền Việt Nam chỉ cần thay đổi cách nhìn và cách đối xử với các tín đồ, các sức sắc và giáo hội của các tôn giáo. Nghĩa là không nên chính trị hóa các hoạt động tôn giáo của cá nhân các tín đồ và chức sắc các giáo hội. Cụ thể:
1 – Nhận thức lại về bản chất và vai trò của tín ngưỡng tôn giáo trong đời sống xã hội của người dân.
Nghĩa là đừng coi tín ngưỡng tôn giáo như những đối tượng nguy hiểm cần phải theo dõi, trấn áp, đề phòng có thể đe dọa đến sinh mạng chính trị chế độ. Vì thực tế hơn ai hết, nhà cầm quyền Việt Nam phải biết và tự tin rằng các giáo hội không thể là mối đe dọa sinh mạng chế độ. Trái lại, phải coi đó là một trong những nhân quyền, dân quyền căn bản, là nhu cầu tâm linh tự nhiên, thiêng liêng, bất khả xâm phạm, không thể thiếu của con người qua mọi thời đại và không sức mạnh nào có thể tiêu diệt. Chính tín ngưỡng, tôn giáo là những nhân tố tích cực góp phần đem lại hạnh phúc cho cuộc sống con người và góp phần quan trọng vào sự ổn định và nền đạo đức xã hội. Vì một xã hội có thần linh mà tội ác, lối sống vô đạo còn gia tăng, thì một xã hội phi tôn giáo tội ác và tiêu cực xã hội nhiều mặt ắt phải gia tăng nhiều hơn nữa. Vì vậy không nên chính trị hóa các giáo hội như các tổ chức chính trị, có tham vọng giành chính quyền với đảng CSVN như các đảng phái hay tổ chức chính trị.
2 – Thực sự tôn trọng, bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trên cả hai bình diện pháp lý cũng như thực tiễn chỉ có lợi chứ không có hại gì cho chế độ.
Nghĩa là, nhà cầm quyền Việt Nam hãy để cho mọi người dân và các giáo hội được hoàn toàn tự do, không bị ngăn cản, hạn chế và không bị phân biệt đối xử trong sinh hoạt tín ngưỡng cá nhân cũng như các sinh hoạt tôn giáo của các tín đồ, chức sắc của các giáo hội. Đồng thời, nhà nước cần tôn trọng quyền dộc lập, tự chủ về tổ chúc, điều hành các hoạt động tôn giáo của các giáo hội và chỉ can thiệp khi có sự vi phạm pháp luật liên quan đến an toàn, trật tự công cộng và phương hại lợi ích hợp pháp, chính đáng của các công dân khác.
Nghĩa là nhà cầm quyền Việt Nam chỉ cần hành xử với tín ngưỡng, tôn giáo theo đúng định nghĩa của luật pháp quốc tế về quyền tự do tín ngưỡng (**) và vận dụng vào thực tiễn Việt Nam tương tự như cách hành xử của các chính quyền trong các nước dân chủ khác trên thế giới; mà ở đó không thấy hay ít khi có người dân nào biểu tình tố cáo và đòi hỏi nhà cầm quyền phải tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo. Mong Việt Nam sớm có được tình trạng tự do tín ngưỡng và tự do tôn giáo ổn định như vậy.
Thiện Ý
(*) – Luật pháp quốc tế về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo tài liệu tham khảo:
(1) – Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền nổi tiếng của Pháp ngày 26-8-1789 đã nói đến tự do cá nhân, tự do tư tưởng, tự do tôn giáo.
“Không ai phải lo lắng về những quan điểm của họ, bao gồm cả những quan điểm về tôn giáo, miễn là sự thể hiện chúng không làm ảnh hưởng tới trật tự công cộng được pháp luật bảo vệ”.
(2) – Hiến chương Liên Hợp Quốc, 1945 đã đề cập đến nội dung quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo hướng:
“Khuyến khích phát triển sự tôn trọng các quyền của con người và các quyền tự do cơ bản cho tất cả mọi người không phân biệt chủng tộc, giới tính, ngôn ngữ hoặc tôn giáo”.
(3) – Tuyên ngôn quốc tế về Quyền con người, 1948 (UDHR)
Tuyên ngôn Toàn thế giới về Quyền con người năm 1948 của Liên Hợp Quốc là văn kiện quốc tế đầu tiên ghi nhận quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo, khẳng định:
“Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo, kể cả tự do thay đổi tín ngưỡng hoặc tôn giáo của mình, và tự do bày tỏ tín ngưỡng hay tôn giáo của mình bằng các hình thức như truyền giảng, thực hành, thờ cúng và tuân thủ các nghi lễ, dưới hình thức cá nhân hay tập thể, tại nơi công cộng hoặc nơi riêng tư”.
(4) – Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, 1966 (ICCPR)
Quyền tự do tư tưởng, lương tâm và tôn giáo được quy định tại Khoản 1, Điều 18 với bốn nội dung cụ thể, theo đó: “Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, lương tâm và tôn giáo. Quyền này bao gồm tự do có hoặc theo một tôn giáo hoặc tín ngưỡng do mình lựa chọn và tự do bày tỏ tín ngưỡng hoặc tôn giáo một mình hoặc trong cộng đồng với những người khác, công khai hoặc kín đáo, dưới các hình thức như thờ phụng, cầu nguyện, thực hành và truyền giảng”.
– Khoản 3 Điều 18: Khác với bản thân quyền tự do tư tưởng, lương tâm, tôn giáo và tín ngưỡng là những quyền tuyệt đối, không thể giới hạn, theo ICCPR, việc biểu đạt, bày tỏ (manifest) tôn giáo và tín ngưỡng lại có thể bị giới hạn:
“Quyền tự do bày tỏ tôn giáo hoặc tín ngưỡng chỉ có thể bị giới hạn bởi pháp luật và khi sự giới hạn đó là cần thiết để bảo vệ an toàn, trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức xã hội, hoặc để bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác”.
VOA (21.03.2023)