„Sau gần 40 Đổi mới Việt Nam đã đạt thời kỳ ‘hoàng kim’, nhưng nay đã kết thúc và bước vào giai đoạn thoái trào…

giờ đây Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền đang đối diện với những thách thức to lớn. Nhận thức quá trình phát triển mang tính lịch sử không chỉ có ý nghĩa đánh giá các sự kiện đã xảy ra và lý giải những gì đang diễn ra mà còn cung cấp tầm nhìn thực tế khách quan và triển vọng của đất nước.“

Doãn An Nhiên

Một người bán hàng rong đi qua một cửa hàng với cờ Việt Nam và cờ Đảng Cộng sản ở Hà Nội hôm 22/5/2024 (minh hoạ) Nhac NGUYEN / AFP

Sau gần 40 Đổi mới Việt Nam đã đạt thời kỳ ‘hoàng kim’, nhưng nay đã kết thúc và bước vào giai đoạn thoái trào, trong đó quá thái vật chất và tham nhũng chính trị là đặc trưng nổi bật. Như một phản ứng của chế độ toàn trị,  an ninh chế độ với trụ cột là an ninh tư tưởng hay an ninh ý thức hệ là một bộ phận cấu thành an ninh quốc gia toàn diện đang được tăng cường. Khởi xướng chủ trương và tiến hành Đổi mới, giờ đây Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền đang đối diện với những thách thức to lớn. Nhận thức quá trình phát triển mang tính lịch sử không chỉ có ý nghĩa đánh giá các sự kiện đã xảy ra và lý giải những gì đang diễn ra mà còn cung cấp tầm nhìn thực tế khách quan và triển vọng của đất nước. Bài viết được trình bày trong bốn phần:

(I) Thời kỳ ‘hoàng kim’ kết thúc: quá thái vật chất và tham nhũng chính trị;

(II) Đảng ‘ngộ nhận’ về năng lực lãnh đạo kinh tế thị trường;

(III) Tăng cường an ninh chế độ, Đảng siết chặt kiểm soát xã hội;

(IV)Đảng đối diện với những thách thức thế nào trong thời kỳ thoái trào?

***

 

Phần một  (I) – Thời kỳ ‘hoàng kim’ kết thúc: quá thái vật chất và tham nhũng chính trị

 

Thời kỳ ‘hoàng kim’ kết thúc, và thoái trào bắt đầu. Thời kỳ ‘hoàng kim’ được đánh dấu bởi tăng trưởng kinh tế nhanh nhưng đồng thời kéo theo sự thái quá vật chất và tham nhũng chính trị lan rộng.

Trong bối cảnh quốc tế và trong nước, đặc biệt trước thách thức “đổi mới hay sụp đổ”[1][2], năm 1986 dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản (Đảng) Việt Nam bắt đầu đường lối Đổi mới… Mốc thời gian là Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6, tại đó chủ trương Đổi mới toàn diện đất nước được ban hành. Đó là đường lối duy trì chế độ Đảng CS toàn trị nhưng xoá bỏ cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp đồng thời với cải cách thể chế để đáp ứng những yêu cầu từ quá trình tự do hoá kinh tế “từ dưới lên” theo hướng thị trường.

Trong khoảng thời gian gần 40 năm, diện mạo Việt Nam được thay đổi nhờ thành tích tăng trưởng kinh tế, xoá đói giảm nghèo, đô thị hoá và cơ sở hạ tầng được tăng cường. Với tốc độ tăng tổng thu nhập quốc nội GDP trung bình năm khoảng 7% “quy mô GDP không ngừng được mở rộng, năm 2023 đạt khoảng 430 tỷ USD, trở thành nền kinh tế lớn thứ năm trong ASEAN… GDP bình quân đầu người tăng 58 lần, lên mức khoảng 4.300 USD năm 2023.” Điều bình thường quen thuộc khi những thành công được tuyên truyền “chạm đến khát vọng phồn vinh, hạnh phúc” [3] và do “sự lãnh đạo sáng suốt” của Đảng.

Tuy nhiên, kể từ khi khi đại dịch COVID-19 tràn tới nền kinh tế đã gặp trục trặc, mức tăng trưởng trồi sụt giảm đột ngột, năm 2020 chỉ là 2,92%, năm kế tiếp, giảm tiếp mức 2,58%, nhưng sau đó bật lên mức 8,02% vào năm 2022, rồi lại khó khăn để đạt mức 5,05% năm 2023. Giới nghiên cứu đã có lý do để ‘lo ngại’ về sự suy giảm kinh tế khi nêu những thách thức. Trước hết, hai trụ cột quan trọng của nền kinh tế bị lung lay dữ dội, khủng hoảng bất động sản kéo theo vỡ nợ trái phiếu doanh nghiệp và lệ thuộc vào đầu tư nước ngoài với sự gián đoạn chuỗi cung ứng cũng như sụp giảm cầu từ các thị trường xuất khẩu lớn. Ngoài ra, các chỉ báo khác về thực trạng kinh tế không khả quan như các doanh nghiệp rời thị trường tăng, khả năng hấp thụ vốn yếu, nợ xấu ngân hàng vẫn ở mức cao, một số bị cảnh báo về phá sản, thị trường chứng khoán ở mức thấp kéo dài, đời sống người lao động khó khăn…  Tất cả đều phản ánh động lực tăng trưởng đang suy giảm mang tính xu hướng hơn là tạm thời.

Ngoài kinh tế, một nửa khác của vấn đề là lĩnh vực chính trị – xã hội, trong đó sự thái quá vật chất, tham nhũng và tha hoá chính trị đang vượt khỏi ‘tầm kiểm soát’ của Đảng. Quốc nạn tham nhũng và tha hoá chính trị là “chưa từng có” trong lịch sử tồn tại của Đảng CS VN từ khi thành lập. Từ Đại hội Đảng lần thứ 11 năm 2011 tham nhũng đã được nhận định là nguy cơ tồn vong chế độ và chiến dịch “đốt lò” được phát động với ‘cam kết’ “không vùng cấm” và quyết tâm làm trong sạch bộ máy lãnh đạo. Tuy nhiên, mặc dù ‘ồn ào’ chống tham nhũng nhưng kết quả không được như mong muốn. Đảng đã thừa nhận các hành vi tham nhũng, tiêu cực của quan chức là tinh vi, phức tạp và khó lường. Trong đó, trong mỗi vụ án tham nhũng luôn có manh mối giữa doanh nghiệp và quan chức, các đại án như thuộc diện “trung ương chỉ đạo” thường có mối liên hệ với các quan chức ở thượng tầng. Đây là lý do mà Đảng “tăng tốc” đẩy chiến dịch đốt lò đến “cực điểm trong bối cảnh ông Tổng bí thư đã tại vị gần ba nhiệm kỳ 15 năm, thâu tóm quyền lực tuyệt đối và bộ máy thừa hành, trong đó lực lượng công an, quân đội được huy động bởi chiến lược an ninh quốc gia (sẽ trình bày ở phần sau) như một công cụ đắc lực, nhưng ông ấy đã không còn nhiều thời gian vì lý do sức khoẻ, tuổi tác để cai trị suốt đời.

Sự ‘xáo trộn’ nhân sự Bộ Chính trị khoá 13 (2021-2026) phản ánh ‘sự thật’ này. Tháng 1 năm 2021 diễn ra Đại hội Đảng lần thứ 13, gần 200 Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương được bầu ra, từ đó bầu chọn nhân sự lãnh đạo chóp bu: Bộ Chính trị Tổng Bí thư, Ban Bí thư, Uỷ ban Kiểm tra Trung ương… gồm 18 người. Và, như đã biết, từ danh sách này, sau đó Quốc hội nước CHXHCN VN khoá 15 (theo chế độ ‘đảng cử dân bầu’), tại đây ban lãnh đạo quyền lực nhất Đảng – Nhà Nước được công bố, trong đó “tam trụ”, ngoại trừ  ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư từ hai khoá trước, số ‘mới’ gồm các ông Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ. Trong vòng hơn một năm kể từ đầu năm 2023, tại Bộ Chính trị đã có 6/18 uỷ viên phải “từ nhiệm”, dù không được công khai các tội danh, nhưng có trực tiếp hay gián tiếp liên quan đến tham nhũng hoặc “tự diễn biến”. Trong đó có hai vị trở thành cựu chủ tịch nước (trong đó có ông Võ Văn Thưởng)  và một vị – cựu Chủ tịch Quốc hội!

Câu thành ngữ “Thượng bất chính, hạ tắc loạn”, một câu văn khởi đầu trong sách giáo khoa Nho học dưới thời phong kiến tập quyền, về tính chất đang ‘đúng’ với hiện trạng xã hội khi chế độ ở giai đoạn kết thúc ‘đỉnh cao’ bước vào ‘thoái trào’. Bùng nổ các hiện tượng trục lợi, lừa đảo, chiếm đoạt, cướp ngân hàng, tranh chấp đất đai, tệ nạn xã hội như cờ bạc, cá cược, buôn bán và tàng trữ ma tuý tràn lan với số lượng lớn, hàng chục nghìn vụ khiếu kiện chủ yếu liên quan đến đất đai, dân oan…

Điều gì đang xảy ra vậy? Liệu Đảng có thể kiểm soát được tình hình và, tương lai chế độ thế nào? Câu trả lời tuỳ thuộc vào việc giải mã các yếu tố khách quan cũng như chủ quan, tác động đến xu hướng thăng trầm chế độ Đảng CS toàn trị mang tính chu kỳ theo ba giai đoạn chủ yếu trỗi dậy, đỉnh cao và thoái trào có ý nghĩa quan trọng.

Trước hết, về các yếu tố bên ngoài. Sau sự kiện bức tường Béc Linh sụp đổ 1989 thế giới ‘hồ hởi’ bước vào toàn cầu hoá 4.0. Có bốn yếu tố quốc tế chủ yếu tạo nên bối cảnh quốc tế cho Đổi mới ở Việt Nam. Một là, quan niệm của nhiều nhà quan sát phương Tây nhận định về chế độ dân chủ sẽ là “sự kết thúc của lịch sử loài người.”[4] “Đó là điểm kết thúc trong cuộc tiến hóa tư tưởng của loài người và sự phổ quát hóa của dân chủ tự do phương Tây với tư cách là thể thức cuối cùng của sự cai trị con người” bởi các hệ tư tưởng cạnh tranh, điển hình là chủ nghĩa Mác-Lênin, đã bị đánh bại. Hai là, thế giới sẽ “phẳng”[5] khi phương thức kinh doanh tư bản chủ nghĩa sẽ thay đổi trái đất từ “tròn” thành “phẳng” không những về kinh tế mà cả văn hoá xã hội; Ba là, các quốc gia Đông Á trỗi dậy, nổi bật là các con ‘rồng, hổ’ Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore… “vươn mình” về kinh tế đồng thời với quá trình dân chủ hoá. Ba yếu tố trên quyết định chính sách can dự của phương Tây, khuyến khích đầu tư ồ ạt vào Trung Quốc cho đến khi “tỉnh ngộ” rằng tăng trưởng kinh tế đã không dẫn đến dân chủ hoá, thay đổi thể chế chính trị. Trung Quốc giờ đây trỗi dậy hung hăng và, cuộc thương chiến Mỹ – Trung ngày càng căng thẳng hướng tới trật tự thế giới mới khó lường với hai hệ tư tưởng đối nghịch.

Và, bốn là, Liên Xô dưới thời M.Gorcbachyov (1985-1991) cũng đang tiến hành chính sách Perestroika (cải tổ) và Glasnost (công khai), tác động đến giới lãnh đạo cộng sản Việt Nam. Hơn thế, Trung Quốc, sau sự kiện Thiên An Môn ngày 4/6/1989, duy trì chế độ toàn trị nhưng tăng tốc “cải cách và mở cửa”. Yếu tố thứ tư có ảnh hưởng quan trọng sau khi Việt Nam và Trung Quốc ‘bình thường hoá’ quan hệ sau Hội nghị Thành Đô[6] năm 1991, tại đó đồn đoán có ‘mật ước’ quan trọng được ký kết giữa hai nước “đồng minh ý thức hệ”. Mặc dù cho đến nay nội dung cụ thể của tài liệu này không được tiết lộ nhưng sự ảnh hưởng lớn của mô hình Trung Quốc, như ‘vòng kim cô’ vô hình giam hãm Việt Nam trong “một tương lai chung” mơ hồ.

Doãn An Nhiên

Tham khảo:

[1]  https://www.khaitam.com/kinh-te-ky-nang/pha-rao-trong-kinh-te-vao-dem-truoc-doi-moi-1

[2]  https://vi.wikipedia.org/wiki/Bên_thắng_cuộc;

[3] https://vietnamnet.vn/thanh-tuu-cua-doi-moi-la-tien-de-cham-den-khat-vong-phon-vinh-hanh-phuc-2246910.html

[4] Francis Fukuyama (1989). The End of History?, The National Interest, No. 16 (Summer), pp. 3-18.

[5] Thomas Friedman (2005). Thế giới phẳng;  https://www.fahasa.com/the-gioi-phang-tom-luoc-lich-su-the-gioi-the-ky-21.html

[6] Hội nghị Thành Đô. https://vi.wikipedia.org/wiki/Hội_nghị_Thành_Đô

 

***

 

Phần hai  (II) – Đảng ‘ngộ nhận’ về năng lực lãnh đạo kinh tế thị trường

Một người phụ nữ đi qua tấm biển cổ động Đại họi 13 của Đảng Cộng sản VN trên đường phố Hà Nội hôm 22/1/2021 (minh hoạ) Nhac NGUYEN / AFP

 

Phần một trình bày khái quát về các yếu tố bên ngoài tác động đến chính sách và hành động, thực tế thăng trầm của chế độ đảng toàn trị, nhấn mạnh về những đặc trưng nổi bật cho sự kết thúc của thời kỳ hoàng kim. Trong phần hai này các yếu tố bên trong là một câu chuyện dài liên quan đến bản chất của chế độ, năng lực ứng phó trước thách thức kinh tế thị trường trong thời kỳ Đổi mới. Chuẩn bị cho chủ trương này cũng như trong những năm đầu thực hiện các chính sách câu hỏi quan trọng nhất là liệu Đảng CS có thể lãnh đạo kinh tế thị trường.

Đổi mới, nhìn tổng quát, là một chương trình cải cách toàn diện, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế, chính trị và nhiều khía cạnh khác của đời sống xã hội được thực hiện tại Việt Nam từ cuối thập niên 1980. Xoá bỏ chế độ kế hoạch hoá tập trung nền kinh tế quan liêu bao cấp được phát động. Tuy không thể hình dung và tin tưởng chắc chắn triển vọng kết quả của Đổi mới sẽ thế nào, sau liệu pháp “giá lương tiền” vào năm 1985 không thành công, giới lãnh đạo đã học cách “dò đá qua sông” chuyển đổi sang kinh tế thị trường từ Trung Quốc vận dụng cho Việt Nam. Nới dần từng bước tự do trong lĩnh vực kinh tế, sản xuất (từ nông nghiệp sang công nghiệp), thương mại, dịch vụ và, sau đó là thu hút đầu tư nước ngoài… Một nền kinh tế hỗn hợp nhiều thành phần được hình thành, các công cụ thị trường, các chỉ tiêu đo lường như tổng sản phẩm quốc nội GDP, lạm phát CPI, chuẩn mực kế toán, tài chính…  được áp dụng nhiều hơn… Tất cả dẫn đến kết quả vượt sự mong đợi.

Không thể phủ nhận động lực thị trường mạnh mẽ đã làm thay đổi tất cả. Hơn thế, thị trường, thực chất là kinh tế tư bản chủ nghĩa, không chỉ cứu chế độ sụp đổ mà còn đảm bảo cho tính chính danh của nó trong suốt quá trình gần 40 năm tồn tại tính từ sau Đổi mới. Trên nhiều diễn đàn các nhà quan sát, nghiên cứu phương Tây cho rằng nền kinh tế mang nhiều yếu tố chủ nghĩa tư bản hơn là chủ nghĩa xã hội. Theo tính chất và những đặc điểm như nêu trong phần một, họ đã định danh kiểu nền kinh tế này là “tư bản nhà nước” hay “nhà nước tư bản thân hữu.”[1] Tuy nhiên, giới lãnh đạo Đảng không cho là như vậy. Họ xác định đó là “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” và, rằng Việt Nam đang ở thời kỳ “làn sóng thứ ba” của chủ nghĩa xã hội. Mới đây thôi, ông Thủ tướng Chính phủ đã ‘tự tin’ chia sẻ kinh nghiệm thành công của Việt Nam trên diễn đàn quốc tế, tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới Davos, Thuỵ Sĩ năm 2024. Đó là năm bài học ‘lớn’[2]: “Một là, kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; kiên trì đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa; là bạn tốt, là đối tác tin cậy, là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Hai là, coi nhân dân là người làm nên lịch sử. Ba là, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc. Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Năm là, phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng CSVN. Cho rằng bí quyết thành công của Việt Nam là “luôn kiên định, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.”

Đây là sự ‘hiểu sai’ về kinh tế thị trường, khuyếch trương về ưu thế chế độ, Đảng ngộ nhận về năng lực lãnh đạo kinh tế thị trường. Sự “ngộ nhận” này xuất phát từ bản chất chế độ Đảng CS toàn trị: quyền lực tuyệt đối và hệ tư tưởng Mác – Lênin.

Kiểu chế độ này ra đời và từng trỗi dậy mang tính lịch sử từ những năm đầu thế kỷ 20 dưới hình thức chế độ phát xít và chế độ cộng sản trong nhiều quốc gia, và hầu hết sụp đổ vào những năm 1990. Tuy nhiên chế độ này ở Trung Quốc và Việt Nam đã vẫn tồn tại, biến đổi và đạt đỉnh cao và, hiện nay là giai đoạn thoái trào. Đó là một hệ thống chính trị được đặc trưng bởi sự kiểm soát tập trung đối với tất cả các khía cạnh của xã hội, bao gồm đời sống chính trị, xã hội, văn hoá và kinh tế. Nó toàn quyền kiểm soát tất cả các khía cạnh của cuộc sống công cộng và riêng tư, và có rất ít hoặc không có giới hạn nào đối với quyền lực đảng – nhà nước.

Đặc điểm trung tâm của chủ nghĩa toàn trị là ý tưởng về sự kiểm soát hoàn toàn. Nó “mạnh” vì dựa vào hai trụ cột chủ yếu sau. Một là, quyền lực tuyệt đối và, hai là, hệ tư tưởng biện minh. Ở đây, về quyền lực trong lĩnh vực chính trị.[3] Đó là quyền lực là sự sản sinh của một hiệu ứng xã hội quyết định năng lực, hành động, niềm tin hoặc hành vi của các tác nhân. Quyền lực không chỉ đề cập đến việc đe dọa hoặc sử dụng vũ lực (ép buộc) của một tác nhân chống lại một tác nhân khác, mà còn có thể được thực hiện, chẳng hạn, thông qua các tổ chức, cá nhân khác.

Một bộ máy cai trị được thiết lập để đảm bảo duy trì quyền lực tuyệt đối. Bộ máy toàn trị dựa trên khái niệm danh pháp – nomenklatura[4]. Nó có đặc quyền, đặc lợi, dễ dàng và kịp thời sản sinh hoặc giải thể các tổ chức với các chức năng phục vụ chế độ. Dưới chế độ toàn trị quân đội, công an là một bộ phận thực thuộc đảng có chức năng chuyên chế. Để chống tham nhũng hệ thống ban chỉ đạo phòng chống tham nhũng từ trung ương đến cấp tỉnh được thành lập. Có thể nêu vô số những dẫn chứng như vậy. Trong phần sau chiến lược an ninh chế độ được mổ xẻ cụ thể hơn.  

Một trụ cột quan trọng khác của chế độ toàn trị là hệ tư tưởng. Trước hết, như một khoa học, đây là một hệ thống các ý tưởng, cả lý thuyết và thực tế, mong muốn vừa giải thích thế giới vừa thay đổi nó. Nghĩa là, hệ tư tưởng nhằm mục đích phục vụ mọi người, thậm chí cứu họ, bằng cách loại bỏ định kiến trong tâm trí của họ và chuẩn bị cho họ chủ quyền của lý trí.

Về nguyên lý, hệ tư tưởng theo nghĩa hẹp được xác định bởi năm đặc điểm sau. Một là, nó chứa một lý thuyết giải thích về một loại ít nhiều toàn diện về trải nghiệm của con người và thế giới bên ngoài; Hai là, nó đặt ra một chương trình về tổ chức xã hội và chính trị; Ba là, việc thực hiện chương trình này kéo theo một cuộc đấu tranh; Bốn là, nó tìm cách không chỉ thuyết phục mà còn tuyển dụng những tín đồ trung thành, đòi hỏi những gì đôi khi được gọi là cam kết; Và, năm là, nó đề cập đến một công chúng rộng rãi nhưng có thể có xu hướng trao một số đặc biệt vai trò của lãnh đạo đối với trí thức.

Hệ tư tưởng Mác – Lê-nin của chế độ Đảng CS toàn trị được hình thành mang tính lịch sử phục vụ cho phong trào cộng sản, thịnh hành trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc khỏi ách thực dân, nhưng nó gây tranh cãi trong xây dựng nhà nước hay chế độ toàn trị, nhất là sau khi mô hình Liên Xô sụp đổ. Hệ tư tưởng Mác – Lê-nin trong mô hình Trung Quốc đã biến đổi bởi tư tưởng thực dụng để biện minh cho chế độ. Những khái niệm mơ hồ như “thị trường không phải là chủ nghĩa tư bản”, “thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, “chủ nghĩa xã hội mang bản sắc Trung Quốc”… thường nhấn mạnh kiểu tuyên truyền lấy mục đích thay thế phương tiện. Sự nguỵ biện và bá quyền văn hoá của A. Gramscy[5] chiếm đoạt tâm trí của dân chúng, tạo ra kiểu ý thức hệ phục tùng, trung thành chế độ và lãnh tụ, có thể để lại hậu quả tiêu cực lâu dài.

Cuối cùng, sự sùng bái cá nhân xung quanh nhà lãnh đạo là một biểu hiện của quyền lực tuyệt đối. Sùng bái cá nhân chỉ việc tôn sùng một người nào đó nhờ các phương tiện truyền thông hay các tuyên truyền khác để tạo ra một hình ảnh anh hùng, lý tưởng, đôi khi đến mức thần thánh. Dưới chế độ toàn trị chiến lược để thần thánh hoá lãnh tụ[6], đặc biệt là thế hệ khai sinh ra chế độ, thường được thực hiện dưới các hình thức khác nhau, đỉnh cao là xây dựng hình tượng hay “hạt nhân” kèm theo với tư tưởng của họ.

Liệu có tư tưởng Tập Cận Bình vẫn là điều gây tranh cãi. Tuy nhiên, ông ấy đã tạo ra ngoại lệ phá bỏ giới hạn quyền lực để cai trị suốt đời trong chế độ Đảng CS toàn trị, một mô hình mà Việt Nam không thể buông bỏ, đối nghịch với chế độ dân chủ. Thể chế dân chủ là sản phẩm của sự phát triển hàng trăm năm của chủ nghĩa tư bản, kinh tế thị trường dựa trên các quyền con người cơ bản và tự do cá nhân và chế độ phân quyền, đối trọng chính trị. Quyết tâm thay đổi trật tự thế giới, ông Tập dẫn dắt Trung Quốc trỗi dậy hung hăng đối đầu, trong đó có chiến lược an ninh chế độ là trụ cột.

Doãn An Nhiên

________

Tham khảo:

[1]   Bùi Mẫn Hân (Minxin Pei). Tư Bản Thân Hữu Trung Quốc (2018). Dịch giả: Nguyễn Đình Huỳnh. Nhà xuất bản Hội nhà văn

[2]   https://tuyengiao.vn/thu-tuong-phat-bieu-tai-doi-thoai-chinh-sach-viet-nam-dinh-huong-tam-nhin-toan-cau-152623

[3]   https://en.wikipedia.org/wiki/Power_(social_and_political)

[4]   https://www.jstor.org/stable/151806: Nhân sự Liên Xô được thành lập: nguồn gốc của hệ thống nomenklatura. Bởi T. H. Rigby

[5]   https://hoangphongtuan.wordpress.com/2019/04/22/quan-niem-cua-antonio-gramsci-ve-ba-quyen-va-van-hoa-dai-chung-hoang-phong-tuan/

[6]  https://www.amazon.com/Ring-Power-Bradley-Patterson-Jr/dp/0465070256

 

***

 

Phần ba (III) – Tăng cường an ninh chế độ, Đảng siết chặt kiểm soát xã hội

Xe của công an đi qua đám đông người biểu tình phản đối Trung Quốc ở Hà Nội hôm 7/8/2011 (minh hoạ) REUTERS/John Ruwitch

 

Trong phần hai “trụ cột” hệ tư tưởng Mác – Lê-nin được khái quát nhấn mạnh ý nghĩa, vai trò của nó đối với sự cai trị của Đảng Cộng sản. Phần ba này tập trung trình bày một nội dung “nhạy cảm” thuộc lĩnh vực tư tưởng – an ninh chế độ, làm rõ không chỉ tầm quan trọng dẫn dắt chiến lược, chính sách và hành động như nền tảng lý luận và thực tế của Đảng mà còn, vì vậy, phải bảo vệ nó “từ sớm, từ xa.” Hơn thế, nội dung này góp thêm cách luận giải những sự kiện, nhất là về chính trị, hay suy đoán về triển vọng chế độ trong giai đoạn thoái trào.

An ninh chế độ là một bộ phận cấu thành an ninh quốc gia. An ninh quốc gia là “một khuôn khổ mô tả cách một quốc gia cung cấp an ninh cho nhà nước và công dân của mình. Chính sách an ninh quốc gia là một mô tả chính thức về sự hiểu biết của một quốc gia về các nguyên tắc chỉ đạo, giá trị, lợi ích, mục tiêu, môi trường chiến lược, các mối đe dọa, rủi ro và thách thức nhằm bảo vệ và thúc đẩy an ninh quốc gia. Thông thường, chính sách an ninh quốc gia dựa trên hiến pháp, tài liệu thành lập và luật pháp của một quốc gia. Chính sách làm rõ hành vi và trách nhiệm của các tổ chức nhà nước trong việc cung cấp an ninh và duy trì pháp quyền.”[1] Ở Việt Nam Luật an ninh quốc gia được ban hành năm 2004, trong đó tập trung nghiêng về bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia khi trong Chương IV có ghi “việc thống nhất quản lý nhà nước về an ninh quốc gia, trách nhiệm của Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao và của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân các cấp trong quản lý nhà nước về an ninh quốc gia.”[2] Tuy nhiên, nó đang thay đổi  ‘khó lường’ để đối phó với chuyển đổi thị trường, cải cách thể chế và chống tham nhũng khó khăn, trong đó thay vì một chính sách nhấn mạnh mục đích đã dần được ‘nâng cấp’ thành công cụ chủ yếu mang tính chuyên chế.

An ninh chế độ là một chính sách “nhạy cảm” mang tính nội bộ đảng, nhưng “bất ngờ” khi được “tiết lộ” bởi một tổ chức phi chính phủ về nhân quyền. Dự án 88 (Project 88) đã công bố Chỉ thị 24-CT/TW (viết tắt CT24) của Bộ Chính Trị Đảng CSVN, do bà Trương Thị Mai, cựu Thường trực Ban Bí Thư ký, ban hành ngày 13/7/2023 về “Bảo đảm vững chắc an ninh quốc gia trong bối cảnh hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng” trong một Báo cáo có tựa đề “Vietnam’s leaders declare war on human rights as a matter of official policy”[3] (Lãnh đạo Việt Nam tuyên chiến với nhân quyền như chính sách chính thức), trong đó có nội dung cho rằng Việt Nam đã vi phạm luật quốc tế và vi phạm Hiến pháp Việt Nam khi viện dẫn “an ninh quốc gia” để biện minh cho việc cấm người dân hội họp, lập nhóm, biểu tình, cấm xuất nhập cảnh, ngăn chặn tài trợ quốc tế cho các dự án của các tổ chức xã hội dân sự.

Khẳng định quyền kiểm soát toàn diện và nghiêm ngặt lĩnh vực tư tưởng. Việc ban hành Chỉ thị 24 nêu trên là một trong những động thái cụ thể hoá, tăng cường chiến lược an ninh chế độ, bộ phận cấu thành của hệ thống an ninh quốc gia, với trụ cột là an ninh tư tưởng, an ninh ý thức hệ. Trụ cột này đề cập đến môi trường trong đó hệ tư tưởng thống trị của nhà nước được bảo vệ tương đối an toàn và không có các mối đe dọa bên trong và bên ngoài cũng như khả năng đảm bảo tình trạng an ninh liên tục. Đảng xác định đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng của an ninh quốc gia nói chung[4] trước các mối đe dọa an ninh truyền thống và phi truyền thống. Trong khi quan điểm truyền thống về an ninh, chủ đề là quốc gia-nhà nước, tập trung vào an ninh chính trị và quân sự, như đã nêu ở trên về Luật An ninh Quốc gia 2004, an ninh phi truyền thống, thường chú trọng vào các mối đe dọa an ninh do “các tác nhân phi nhà nước” gây ra, chẳng hạn như các tổ chức liên quốc gia, các phe nhóm trong nội bộ ở trung ương và địa phương, xã hội dân sự hoặc cá nhân có ảnh hưởng. Ngoài ra, từ quan điểm của xã hội, an ninh tư tưởng chủ yếu liên quan đến an ninh ý thức hệ của Đảng CS. Nó liên quan đến cả hai lĩnh vực chính trị và văn hoá và, trong kỷ nguyên toàn cầu hóa, nó dễ bị tác động bởi các nền văn hóa và tư tưởng đối nghịch trong và ngoài nước. Bởi vậy, để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng cần thiết phải xác định mục tiêu và giá trị cơ bản của an ninh ý thức hệ là duy trì tính hợp pháp chính trị và các đặc điểm và sự độc lập của văn hóa quốc gia.

Tăng cường chiến lược an ninh tư tưởng, Đảng siết chặt kiểm soát xã hội. Giới quan sát đã nhận thấy rằng, từ năm 2016 Đảng đã ban hành Nghị quyết Trung ương 4 (NQ 04-NQ/TW[5] ngày 30/10/2016) “về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ” không chỉ phản ánh những lo ngại về sự tha hoá trong nội bộ mà còn tái khẳng định quyền kiểm soát toàn diện lĩnh vực tư tưởng, thể hiện thái độ thù địch với xã hội dân sự. Đảng đã tiến hành kế hoạch hành động toàn diện để thực thi chính sách an ninh tư tưởng. Việc luật hoá để mở rộng quyền hạn của Bộ Công an được tăng tốc, tổ chức và nhân sự được củng cố, lực lượng và nguồn lực, kinh phí hoạt động được tăng cường. Bộ Công an thực sự đã trở thành công cụ chuyên chế của Đảng.

Chẳng hạn, từ đầu tháng 7/2024 Luật Lực lượng tham gia bảo vệ ANTT cơ sở năm 2023 có hiệu lực thi hành. Lực lượng này bao gồm công an phường, xã bán chuyên trách, bảo vệ dân phố và dân phòng và, Bộ Công an đã rầm rộ ‘ra quân’ ở khắp 63 tỉnh thành trong cả nước. Tại TP. Hồ Chí Minh có 4.861 tổ bảo vệ an ninh trật tự cơ sở với hơn 15.000 thành viên; ở thủ đô Hà Nội – TP lớn thứ hai cả nước – thành lập hơn 5.430 tổ với 21.270 thành viên; tại Nghệ An nơi có nhiều người theo đạo Công giáo và là nơi có những căng thẳng giữa chính quyền địa phương và giáo dân, số lượng tổ an ninh cơ sở là  3.797…

Ban hành chỉ thị ‘mật’ 24 nêu trên, làn sóng trấn áp đã tăng cường, hàng chục nhà hoạt động xã hội, môi trường, các nhà báo, các Facebookers… bị bắt theo các điều 117 và 331 Bộ luật hình sự. Vụ bắt giữ hai quan chức của Bộ Lao động, Thương Binh và Xã hội[6] và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã gây chú ý khi được cho là có liên quan đến cải cách quyền của người lao động trong Bộ Luật Lao động Việt Nam. và, mới đây ngày 7/6/2024 là hai vụ bắt giữ[7] Blogger Huy Đức, nhà báo, tác giả cuốn sách nổi tiếng “Bên thắng cuộc” và luật sư Trần Đình Triển, trưởng Văn phòng luật sư Vì Dân, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội.

Các nhà quan sát cho rằng Chỉ thị ‘mật’ 24-CT/TW có ‘mối liên hệ’ với Tài liệu số 9 hay còn gọi là Thông cáo về Tình trạng hiện tại của Lĩnh vực tư tưởng[8] của Đảng CS Trung Quốc ban hành vào năm 2013. Tuy nhiên, Chỉ thị 24 có phạm vi điều chỉnh hẹp hơn, tập trung vào kiểm soát ở trong nước trong khi Tài liệu số 9 tập trung vào “phương Tây” cho rằng họ đã tìm cách “lật đổ” quyền lực của Đảng CS TQ bằng cách truyền bá nền Dân chủ Lập hiến phương Tây, các giá trị phổ quát về các quyền con người và tự do cá nhân, xã hội dân sự, tự do báo chí, chủ nghĩa tân tự do và chủ nghĩa hư vô về lịch sử và chính sách cải cách và mở cửa,  từ đó Đảng có thể tạo ra một hệ thống “cơ chế cảnh báo sớm rủi ro ý thức hệ.” Cần nhấn mạnh sự tương đồng về tính chất của chính sách an ninh chế độ của hai Đảng CS ‘đồng minh ý thức hệ’ là tất yếu nhưng Trung Quốc trực diện đối đầu phương Tây trong khi Việt Nam thì không vì vị thế của mỗi nước, trong đó có lý do kinh tế.

Trung Quốc dưới thời Tập Cận Bình đang tìm cách trở thành cường quốc hàng đầu thế giới và, “chiến lược an ninh quốc gia toàn diện” được xác lập, trong đó an ninh ý thức hệ là một bộ phận, là nỗ lực quyết đoán “chuyển đổi từ tư duy phòng thủ chủ yếu sang kết hợp cả các yếu tố phòng thủ và tấn công.”[9] Từ luật an ninh quốc gia hà khắc ở Hồng Kông, đàn áp dân tộc, tôn giáo ở Tân Cương đến chiến tranh chính trị chống lại Đài Loan… là những động thái thể hiện tầm nhìn của chiến lược này. Tư duy thực thực dụng Đặng Tiểu Bình đã chấm dứt, “cải cách và mở cửa” đang chuyển hướng mô hình Trung Quốc trong thời kỳ thoái trào.

Đối với Việt Nam câu hỏi đặt ra là vì sao không công khai hoá chính sách an ninh chế độ để “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra”. Việc áp dụng cực đoan ‘quá thái’ chỉ vì duy trì quyền lực chế độ đang thúc đẩy tình huống “công an trị” sẽ cản trở cải cách chuyển đổi thị trường, huỷ hoại dân chủ và, cuối cùng là kìm hãm sự phát triển.

Doãn An Nhiên

___________

Tham khảo:

[1] Lực lượng đặc nhiệm SSR của Liên Hợp Quốc (2012), Cải cách ngành an ninh. Ghi chú Hướng dẫn Kỹ thuật Tích hợp; DCAF (2008), Thông tin cơ bản về Chính sách An ninh Quốc gia

[2] https://www.moj.gov.vn/vbpq/Lists/Vn%20bn%20php%20lut/View_Detail.aspx?ItemID=18582

[3] https://the88project.org/wp-content/uploads/2024/02/D24-report-final.pdf

[4] https://nhandan.vn/cu-the-hoa-quan-diem-bao-ve-to-quoc-tu-som-tu-xa-trong-bao-dam-an-ninh-quoc-gia-post765074.html

[5] https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/hoi-nghi-bch-trung-uong/khoa-xii/nghi-quyet-so-04nq-tw-ngay-30102016-hoi-nghi-lan-thu-tu-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-xii-ve-tang-cuong-xay-dung-chinh-550

[6] https://tuoitre.vn/bat-vu-truong-vu-phap-che-bo-lao-dong-thuong-binh-va-xa-hoi-vi-lam-lo-bi-mat-nha-nuoc-20240509092959642.htm

[7] https://tuoitre.vn/bat-ong-truong-huy-san-osin-huy-duc-va-ong-tran-dinh-trien-20240602083151396.htm

[8] https://www.chinafile.com/document-9-chinafile-translation

[9] https://www.prcleader.org/post/the-chinese-national-security-state-emerges-from-the-shadows-to-center-stage

 

***

 

Phần bốn  (IV) – Đảng đối diện với những thách thức thế nào?

Cờ Đảng Cộng sản treo trên đường phố Hà Nội hôm 22/1/2021 (minh hoạ) AFP

Tăng cường an ninh chế độ (“bảo vệ an ninh chính quyền”, “an ninh Nhà nước”) Đảng Cộng sản Việt Nam toàn trị đã lựa chọn củng cố để duy trì chế độ đảng – nhà nước tập quyền. Thời kỳ hoàng kim đang kết thúc và thoái trào đã bắt đầu đã đặt ra những thách thức to lớn về việc thực hiện nhiệm vụ tăng trưởng kinh tế đồng thời với chống tham nhũng để đảm bảo tính chính danh của chế độ trong bối cảnh quốc tế và trong nước đang có những thay đổi nhanh và khó lường. Thực tế chỉ ra thể chế ngày càng có vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế, nhưng nghịch lý tăng trưởng kinh tế nhanh nhờ động lực thị trường và tham nhũng tràn lan đang đặt ra những vấn đề mới, phức tạp cho cải cách thể chế ở Việt Nam, trong đó thể chế chính trị phải tương thích với kinh tế thị trường. Tăng cường an ninh chế độ, Đảng cho rằng đó là giải pháp củng cố đảng – nhà nước ‘trong sạch, vững mạnh’, tuy nhiên sự tác động đến tăng trưởng kinh tế thế nào là vấn đề thách thức to lớn.

Trước hết, về tăng trưởng kinh tế, mặc dù với cách tiếp cận truyền thống thì các số liệu cũng toát lên sự thách thức không hề nhỏ. Đến Đại hội toàn quốc lần thứ 14 của Đảng thời gian còn lại không nhiều, khoảng một năm rưỡi, để thực hiện mục tiêu tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội GDP bình quân năm khoảng 6,5% – 7% và kiềm chế lạm phát ở mức 4,5% cho thời kỳ năm năm 2021-2026. Quốc hội khoá 15 đã đánh giá đây “là một nhiệm vụ vô cùng khó khăn.”[1] Những năm đầu nhiệm kỳ 13 chỉ tiêu tăng GDP trồi sụt ở mức thấp. Bỏ qua độ tin cậy của những con số thống kê “lạc quan”  thì mục tiêu GDP cho cả nhiệm kỳ cũng không thể đạt được.

Để kích thích tăng trưởng, Chính phủ đã đưa ra nhiều giải pháp chính sách hỗ trợ phục hồi, nhưng hiệu ứng của chúng không được như mong muốn. Chẳng hạn, chính sách hỗ trợ 2% thuế giá trị gia tăng cho doanh nghiệp đã phải tiếp tục ‘ra hạn’ thêm hay kích cầu du lịch cũng không tác động nhiều. Ngoài ra, các chuyên gia đang theo dõi tỷ lệ lạm phát đang có xu hướng tăng lên trong năm 2024[2]. Tăng lương công chức viên chức tăng lên đến 30% và các đối tượng hưu trí 15% từ 1/7/2024 cũng như chi phí tăng trong các lĩnh vực, trong đó có kinh phí cho an ninh, quốc phòng là động lực của áp lực gia tăng này…

Ngoài những đánh giá thị trường qua cung cầu đầu tư và tiêu dùng, sự thay đổi đáng chú ý là chính sách đã tập trung hướng vào các trụ cột tăng trưởng GDP mà nền kinh tế phụ thuộc vào. Đó là các lĩnh vực bất động sản, đầu tư trực tiếp nước ngoài và đầu tư công. Đây là cách tiếp cận thể chế về tăng trưởng. Chẳng hạn, việc sửa đổi, bổ sung ba bộ luật Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản, vừa được thông qua tại Quốc hội khoá 15, có vai trò quan trọng nhằm tháo gỡ ‘vướng mắc pháp lý’ cho lĩnh vực bất động sản thoát khỏi khủng hoảng, vì tính cấp bách, được ‘chỉ đạo’ cần phải được gấp rút hoàn thiện các văn bản hướng dẫn thi hành để chúng cùng có hiệu lực thi hành từ ngày 1/8/2024.[3] Đối với trụ cột đầu tư nước ngoài một kế hoạch về quỹ thu hút đầu tư nước ngoài đang được Chính phủ xem xét phê duyệt. Quỹ này có nguồn từ ngân sách nhà nước nhằm hỗ trợ các dự án đầu tư nước ngoài ở quy mô lớn trong các lĩnh vực công nghệ cao như trí thông minh nhân tạo, chất bán dẫn… Và, trụ cột thứ ba là tăng cường đầu tư công trong các dự án hạ tầng cơ sở giao thông như đường cao tốc Bắc – Nam, sân bay Long Thành, dự án đường dây 500kV mạch 3 được Chính phủ đốc thúc thực hiện…

Việt Nam là nước nghèo rất cần vốn cho tăng trưởng. Các lãnh đạo chính phủ công du nước ngoài tích cực kêu gọi các dự án đầu tư[4]. Tuy nhiên, những lo ngại tăng lên khi nhiều tập đoàn kinh tế lớn ‘cân nhắc’ lựa chọn Việt Nam để đầu tư, trong đó có hiệu ứng từ tăng cường an ninh chế độ. Nửa cuối năm 2023 vào dịp nâng cấp quan hệ chiến lược toàn diện Việt – Mỹ, những tập đoàn khủng của Mỹ ‘hăng hái’ đến khảo sát, tìm kiếm cơ hội đầu tư, nhưng rồi phần lớn đã ra đi ‘thầm lặng’. Thay vì Việt Nam, Indonesia và Malaysia đã được lựa chọn. Báo mạng Investor thuộc Hiệp hội Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài Việt Nam (VAFIE) cảnh báo rằng, những tập đoàn toàn cầu lớn, gồm Intel, LG Chemical, AT&S, Samsung và SMC, đang bỏ qua Việt Nam để đầu tư vào những nước khác hay đang xem xét không đầu tư thêm vào Việt Nam, trong đó khung pháp lý lỗi thời của Chính phủ là một trong những nguyên nhân đã khiến những tập đoàn khổng lồ toàn cầu từng có đề nghị đầu tư lớn vào Việt Nam bỏ qua thị trường này để đầu tư vào những nơi khác. Vì vậy việc ‘giữ chân họ’ là nhiệm vụ quan trọng.[5]

Cách tiếp cận thể chế ngày càng quan trọng để cải cách thúc đẩy tăng trưởng. Để tăng trưởng bền vững phòng chống tham nhũng là cần thiết cấp bách nhưng việc tạo dựng khung khổ thể chế mang tính nguyên tắc cho thị trường hoạt động là cơ bản lâu dài. Trong cuộc chiến “đốt lò” do ông Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ đạo những năm gần đây hàng ngàn quan chức và lãnh đạo doanh nghiệp đã bị điều tra, liên quan đến nhiều vụ án tham nhũng, trong đó, như đã trình bày, gây xáo trộn nhân sự lãnh đạo chóp bu là “chưa từng thấy.” Và, hiệu ứng phụ là các quan chức chưa ‘bị lộ’ sợ thành «củi», hoạt động kinh tế chậm lại. Thiết lập “lồng thể chế” để nhốt quyền lực theo quy luật vận hành của nó trong bối cảnh thị trường mới là giải pháp chính sách căn cơ. Đây thực sự là món nợ cải cách mà Đảng cam kết với toàn dân.

Nhà khoa học chính trị Yuen Yuen Ang tại Đại học Michigan đã chỉ ra một thực tế ở nền kinh tế và chế độ chính trị Trung Quốc tương đồng với Việt Nam, rằng trong thời kỳ ‘hoàng kim’ thì tăng trưởng bùng nổ nhưng đồng thời với tham nhũng tràn lan, nghiêm trọng[6] và, khi chiến dịch chống tham nhũng căng thẳng thì không những làm sụt giảm tăng trưởng mà, như hậu quả, còn gây ra rối loạn xã hội, suy yếu quản trị nhà nước, thậm chí là nguy cơ sụp đổ chế độ. Bà đã so sánh tương đối với thời kỳ mạ vàng (gilded age) ở Mỹ vào cuối thế kỷ 19 khi chủ nghĩa tư bản mở rộng ‘hoang dã’ hàm ý những cải cách theo hướng dân chủ để kiểm soát quyền lực đã thúc đẩy nước Mỹ bước vào “Kỷ nguyên Tiến bộ” (1896–1917)[7] với đặc trưng là các hoạt động xã hội và cải cách chính trị lan rộng trên khắp đất nước. Tại đó, các nhà tiến bộ đã tìm cách giải quyết các vấn đề gây ra bởi quá trình công nghiệp hóa nhanh chóng, đô thị hóa và tham nhũng chính trị cũng như sự tập trung lớn của quyền lực của các công ty độc quyền.

Công trình nghiên cứu của Tiến sĩ Ang được dẫn ra ở trên xoay quanh giai đoạn trỗi dậy của Trung Quốc, đặc biệt dưới thời Tổng bí thư Đảng CS Tập Cận Bình, – một trong những sự gián đoạn đáng kể nhất của thời đại hiện nay và những hậu quả toàn cầu của nó. Nó chỉ ra Trung Quốc với tư cách là ‘kẻ gây rối loạn trật tự toàn cầu’  và cách chính phủ nước này đối diện với những thách thức của thế kỷ 21, trong đó đỉnh cao căng thẳng là cuộc thương chiến Mỹ – Trung. Sự tương đồng chế độ chính trị của Việt Nam mang tính lịch sử nhưng đã không thể thoát nổi “đồng minh ý thức hệ”.  Việt Nam đã ‘cam kết’ tham gia “cộng đồng chia sẻ tương lai”, một khái niệm mơ hồ, nhưng do Trung Quốc dẫn dắt. Đây thực sự là một thách thức lớn nhất, cơ bản lâu dài đối với cải cách vì sự phát triển đất nước.

Qua thời kỳ hoàng kim, Trung Quốc bước vào thời kỳ thoái trào, Việt Nam học tập thế nào?[8] Chiến lược an ninh chế độ có nguồn gốc Trung Quốc đang chứng tỏ việc vận dụng trong điều kiện đặc thù Việt Nam, họ là cường quốc ta là nước nhỏ, cũng là thách thức không nhỏ khi hậu quả nhãn tiền là chế độ đã bị ‘công an hoá’, sự quá thái chuyên chế sẽ huỷ hoại sự phát triển đất nước và dân tộc.

Doãn An Nhiên

_________

Tham khảo:

[1] https://dangcongsan.vn/kinh-te/muc-tieu-tang-truong-binh-quan-khoang-6-5-7-la-mot-nhiem-vu-vo-cung-kho-khan-650101.html

[2] https://vneconomy.vn/vietnam-inflation-outlook-experts-see-higher-prices-in-2024-but-growth-remains-robust.htm

[3] https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/luat-dat-dai-luat-nha-o-luat-kinh-doanh-bat-dong-san-cung-co-hieu-luc-tu-1-8-2024-119240629094929233.htm

[4] https://vafie.org.vn/kinh-te-xa-hoi/giu-chan-cac-ong-lon-cong-nghe-bang-cach-nao-1367

[5] https://media.chinhphu.vn/tan-dung-tung-phut-tung-gio-de-thu-hut-dau-tu-tu-cac-chaebol-hang-dau-han-quoc-102240703233912153.htm

[6] Yuen Yuen Ang (2020). China’s Gilded Age.The Paradox of Economic Boom and Vast Corruption. University of Michigan Pres;  https://www.amazon.com/Chinas-Gilded-Age-Yuen-Ang/dp/1108745954

[7] https://en.wikipedia.org/wiki/Progressive_Era

[8] https://www.rfa.org/vietnamese/news/comment/blog/china-model-out-of-trend-what-lesson-for-vn-part-1-04162024111025.html

* Các bài viết không thể hiện quan điểm của Đài Á Châu Tự Do

RFA (05.07.2024)