Ngày 30 tháng 4 không chỉ là một dấu mốc lịch sử, mà còn là cơ hội để mỗi người Việt chiêm nghiệm chặng đường nửa thế kỷ đã qua. Sau năm 1975, chiến tranh kết thúc, đất nước “thống nhất”. Đó lẽ ra phải là khởi đầu cho một kỷ nguyên mới, nơi hai miền cùng nhau xây dựng một quốc gia dân chủ, giàu mạnh và văn minh. Nhưng tiếc thay, những hy vọng ấy nhanh chóng tan biến.
Thay vì hòa hợp, người ta chọn áp đặt. Thay vì trân trọng tài năng và đa dạng, người ta chỉ giữ lại sự phục tùng. Vinh quang “thống nhất” trở thành khập khiễng khi nhiều con người chân thành không tìm được chỗ đứng trong lòng dân tộc. Và từ đó, những mâu thuẫn, những nghịch lý, những bi kịch kéo dài cho đến hôm nay.
Nửa thế kỷ qua, chế độ cộng sản Việt Nam đã bộc lộ toàn bộ bản chất của nó : quyền lực tập trung tuyệt đối trong tay một đảng, nuôi dưỡng đặc quyền đặc lợi, còn người dân thì bị tước đoạt quyền tự do căn bản. Người có tài, có bản lĩnh, có tư duy độc lập không thể ngẩng đầu; kẻ nịnh bợ, luồn cúi lại thăng tiến. Tham nhũng trở thành một căn bệnh di căn trong mọi ngóc ngách xã hội. Hệ thống cồng kềnh, bảo thủ, bất lực trước thách thức toàn cầu, nhưng vẫn tự khoác cho mình cái áo “lãnh đạo toàn diện”.
Sau 50 năm, những khẩu hiệu “độc lập – tự do – hạnh phúc” chỉ còn là tiếng vang trống rỗng. Chủ quyền quốc gia bị đe dọa, tự do cá nhân bị bóp nghẹt, còn hạnh phúc thì xa vời đối với hàng triệu người dân. Cái giá phải trả cho một cuộc chiến đầy máu lửa dường như chưa mang lại một tương lai xứng đáng.
Trong bối cảnh hiện tại, có ai còn đủ can đảm để tranh cãi “ai thắng, ai thua” ? Điều quan trọng hơn là phải thừa nhận một thực tế : đất nước đang đi vào ngõ cụt nếu vẫn tiếp tục duy trì một thể chế lỗi thời. Chính sự thật ấy buộc chúng ta phải tỉnh thức và có trách nhiệm hơn với tương lai.
Nhìn lại lịch sử nhân loại, càng thêm xót xa. Ấn Độ đã giành độc lập bằng con đường bất bạo động. Nhiều quốc gia Đông Nam Á chặn đứng được làn sóng cộng sản. Đông Âu đã thoát khỏi gông cùm độc tài khi người dân nhận ra sức mạnh chính trị và tinh thần dân tộc. Vậy mà Việt Nam, dù đầy khát vọng, vẫn bị trói chặt trong bóng tối. Tại sao? Và đến bao giờ chúng ta mới tìm được lối thoát cho mình?
Không thể chờ đợi những phép màu. Thay đổi chỉ đến khi dân tộc thực sự tỉnh thức, biết tự quyết vận mệnh của mình. Và điều này đặt lên vai thế hệ trẻ – cả trong và ngoài nước – một trách nhiệm lịch sử.
Người trẻ Việt Nam ở hải ngoại lớn lên trong tự do, được tiếp cận tri thức và cơ hội mà cha ông phải trả bằng máu và nước mắt. Đó là một may mắn, nhưng cũng là một thử thách : liệu các em có đủ gắn bó và tha thiết với quê hương để giữ căn cước, để không quay lưng với trách nhiệm?
Người trẻ Việt Nam trong nước lại đối diện thực tại ngột ngạt hơn. Các em khát khao sáng tạo, muốn cống hiến, nhưng bị trói buộc trong giáo dục què quặt, trong một xã hội thiếu tự do và minh bạch. Nhiều em chọn im lặng, hoặc bỏ xứ ra đi. Nhưng chính họ – những người đang sống và thở trên mảnh đất Việt Nam – mới là chìa khóa cho sự đổi thay thật sự.
Hai khối người trẻ – một ở trong nước, một ở hải ngoại – khác hoàn cảnh, nhưng cùng chung một dòng máu Việt. Nếu thế hệ trẻ hải ngoại biết trân trọng tự do để đồng hành, chia sẻ kinh nghiệm, còn thế hệ trẻ trong nước nuôi dưỡng dũng khí và ý chí thay đổi, thì sự kết hợp ấy sẽ tạo nên một sức mạnh vô song. Một sức mạnh có thể hàn gắn những chia rẽ, gột rửa những sai lầm, và mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc.
Nửa thế kỷ đã qua, bóng tối vẫn bao trùm. Nhưng tương lai không phải là cánh cửa đã khép chặt. Lịch sử sẽ sang trang nếu thế hệ hôm nay – nhất là người trẻ – dám bước tới, dám khẳng định quyền làm chủ vận mệnh của dân tộc mình.
Và tôi mong rằng, một ngày nào đó, lịch sử sẽ không còn nhắc đến ai thắng, ai thua. Người ta sẽ chỉ nhớ rằng : có một thế hệ người Việt đã cùng nhau đứng lên, vượt qua mọi khác biệt, để khai mở một kỷ nguyên mới – kỷ nguyên của Tự Do và Nhân Phẩm.
Ngọc Châu