Mặc dù nhiều khi mượn áo trí thức để làm dáng nhưng trong thực tế bản chất của lưu manh là thâm thù căm ghét trí thức chân chính. Và họ căm thù trí tuệ nói chung. Vương Trí Nhàn

Thi sĩ Dương Tường vừa viết thư (“Gửi Bạn Ở Cõi-Bên-Kia”) nhân ngày giỗ đầu – ngày 18 tháng 12 năm 2015 – của nhà văn Bùi Ngọc Tấn:

“Mình đang đi trên một con phố mới, hình như ở Hải Phòng. Lạ hoắc song lại có nét gì quen quen mà không tài nào xác định nổi. Giống như khi ta cố nhớ ra một cái tên rất thân quen, chắc chắn nó ở quanh quanh đâu đây trong bộ nhớ, chỉ dấn chút xíu nữa là “bắt” được mà nó vẫn vuột mất để rồi đến một lúc thôi không  cố nhớ nữa thì nó lại bất ngờ hiện ra. À, đây rồi cái biển tên phố gắn trên một cột đèn. Mình tiến lại và đọc thấy: BÙI NGỌC TẤN…

Thế là mình thức giấc. Và ngồi viết thư cho Tấn đây…

Hà Nội đã có những đường phố mang tên Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Xuân Diệu, Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Huy Tưởng …, những điểm son của văn học Việt Nam. Thế còn bao giờ Nam Định có phố Trần Dần, Bắc Ninh có phố Hoàng Cầm, Thanh Hóa có phố Hữu Loan, Yên Bái có phố Lê Đạt, Thừa Thiên-Huế có phố Phùng Quán?  Và Hải Phòng có phố Bùi Ngọc Tấn? Một dự cảm tâm linh nói với mình: rồi những giá trị đích thực sẽ được trả về đúng vị trí. Con đường mình vừa dạo chơi trong mơ – đường Bùi Ngọc Tấn – rồi sẽ thực sư có trong thực tại. Và biết đâu đấy, mình lại có dịp thả bộ trên con đường ấy, như đã thả bộ trên đường Văn Cao dăm năm trước …”

Bức thư thượng dẫn làm tôi nhớ đến những mẩu đối thoại (tưởng tượng) khác, cũng của người ở cõi dương với bạn bè ở bên kia thế giới:

Tôi thỉnh thoảng dạo phố vẫn hay dừng lại nhìn lên một tên phố mà chuyện trò lặng lẽ với con người ngồi ở trên cái bảng sắt tây dó. Để nghe anh ta giãi bày. Và cũng để anh ta đừng tưởng bở.

Thí dụ Văn Cao, ngày hai lượt ra trung tâm thành phố và về Cầu Giấy, tôi từng có lần hỏi anh: Cậu khỏe không? … Bây giờ ở trên cao này có thấy sao không?” Thì Văn Cao bảo tôi:“Tao làm nhạc, làm thơ, vẽ, ai hay nay làm diễn viên lên sân khấu đóng vai kịch ca ngợi đảng trọng hiền tài. Mày với tao sống trong cái chăn toàn rận này, mày lạ đ. gì nữa.

Hôm nọ thằng Dương Bích Liên nó lui lủi đi dưới kia, đầu chúi chúi, hai tay đút túi quần. Tự nhiên nó nhìn lên hỏi, mày lại cam ra làm bù nhìn bịp cho cái chính sách yêu vớt trí thức ư? Thế là tao rơi đánh xoáng một cái xuống. (Trần Đĩnh. Đèn Cù II, Westminster, CA: Người Việt, 2014).

Tôi thì trộm nghĩ rằng những con phố mang tên Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Xuân Diệu (e) chả phải là vở kịch “đảng trọng hiền tài” hay “chính sách yêu vớt trí thức” – như cách dụng ngữ của nhà văn Trần Đĩnh đâu. Những người cộng sản Việt Nam có đời nào mà tử tế dữ vậy. Họ cũng chưa bao giờ qúi trọng hay yêu thương gì giới trí thức cả, “giả trọng” hay “yêu vớt” cũng không luôn. Nói gần nói xa, chả qua nói thiệt, và nói theo lối thường dân (Nam Bộ) thì đây chẳng qua chỉ là “chính sách ăn theo” hoặc “chiến thuật dựa hơi” của Đảng mà thôi.

Kiểu chơi láu cá chó này ai cũng biết, đâu có xa lạ và mới mẻ gì. Tạp chí Khởi Hành số  phát hành tháng 8 năm 99 – từ California – đã có bài viết (“Khi Chính Trị Chi Phối Văn Hoá”) của Thạc Sĩ Trần Anh Tuấn, về mấy cái mánh (lặt vặt) như thế tự lâu rồi.

Một phần của bài viết, Trần Anh Tuấn dùng để điểm cuốn Lịch Sử Và Văn Hoá Việt Nam, Những Gương Mặt Trí Thức, tập Một – do Dương Trung Quốc, Nguyễn Quang Ân và Tạ Ngọc Liễn sưu tầm và biên tập – nhà xuất bản Văn Hoá Thông Tin Hà Nội xuất bản năm 1998. Nội dung cuốn sách được ghi nhận và phân tích như sau:

“Với hơn 700 trang, các tác giả đã chọn ra 71 nhân vật mà họ vinh danh là những trí thức Việt Nam tiêu biểu trải qua 770 năm lịch sử, với 9 thời đại và thời kỳ (Trần, Hồ, Lê, Trịnh, Nguyễn, Tây Sơn, Nguyễn, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, và Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa V.N.)”.

“Nhưng nhìn vào danh sách là chúng ta thấy ngay sự ăn gian của những người làm sách: trong suốt 720 năm (1225 – 1945) họ chỉ chấm có 38 nhân vật tức 53%. Ðó là Trần Thái Tông, Lê Văn Hưu, Trần Quốc Tuấn, Trần Nhân Tông, Chu Văn An, Tuệ Tĩnh, Hồ Nguyên Trừng, Nguyễn Trãi, Triệu Thái, Lê Thánh Tông, Lê Sĩ Liên, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan, Lê Hữu Trác, Nguyễn Thiếp, Lê Qúi Ðôn, Lê Thì Sĩ, Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Trần Văn Kỷ, Võ Trường Toản, Phan Huy Chú, Vũ Phạm Khải, Nguyễn Ðình Chiểu, Phạm Thuật Duật, Nguyễn Hữu Huân, Nguyễn Truờng Tộ, Nguyễn Quang Bích, Lương Văn Can, Nguyễn Phạm Tuân, Phan Bội Châu, Nguyễn Thượng Hiền, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Phan Văn Trường, Nguyễn Văn Vĩnh, Nguyễn An Ninh, và Phạm Tuấn Tài.”

“Trong 50 năm sau cùng (1945 – 1995), họ đưa ra một số lượng khổng lồ là 33 nguời, tức 47%. Trong số 33 tên, chỉ trừ giáo sư Hoàng Xuân Hãn sống ở Pháp, còn lại 32 tên không ai khác hơn là những đảng viên cao cấp của Ðảng Cộng Sản Việt Nam và những nguời phục vụ chế độ cộng sản. Ðó là Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Truờng Chinh, Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát, Nguyễn Khánh Toàn, Ðặng Thái Mai, Trần Huy Liệu, Phạm Huy Thông, Tôn Thất Tùng, Hồ Ðắc Di, Phạm Ngọc Thạch, Trần Ðại Nghĩa, Nguyễn Văn Huyên, Tạ Quang Bửu, Trần Văn Giáp, Tôn Quang Phiệt, Hải Triều, Ngụy Như Kon Tum, Dương Ðức Hiền, Ðặng Văn Ngữ, Hoài Thanh, Nam Trân, Nguyễn Khắc Viện, Lê Văn Thiêm, Từ Chi, Nguyễn Ðổng Chi, Cao Xuân Hy, Trần Ðức Thảo, Hoàng Thúc Trâm, Ðào Duy Anh, và Hoàng Xuân Hãn.”

Nhạc sĩ Tô Hải mô tả đây là “cái trò nhố nhăng định khoanh vùng lịch sử chỉ còn ở cái ‘thời rực rỡ nhất’ là do Đảng họ lãnh đạo thôi,” chứ CS chả có lòng “yêu vội” hay “yêu vớt” gì Trần Ðức Thảo,  Ðào Duy Anh, Hoàng Xuân Hãn… cả. Họ chỉ “dựa hơi” những nhân vật trí thức này để mở đường cho cái đám thất phu (cỡ như Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Truờng Chinh …) được dịp “quá giang” hay “đi ké” vào lịch sử – như những gương mặt trí thức – Việt Nam.

Tương tự, những con đường mang tên Nguyễn Chí Thanh, Xuân Thủy, Phạm Văn Đồng, Mai Chí Thọ, Phạm Hùng, Trần Quốc Hoàn … sẽ bớt dơ dáng và dị hợm (phần nào) khi được đặt cùng với mấy tên phố tử tế và đàng đàng hoàng khác: Nguyễn Tuân, Văn Cao, Nguyên Hồng, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng… Làm thế coi cho đỡ chướng, và ngó cũng dễ “nuốt” hơn. Trông cũng giống như mấy lát mì cõng cơm (ăn độn) vậy mà!

Tôi còn sợ rằng giấc mơ của Dương Tường (dám) lại là ác mộng của Bùi Ngọc Tấn nữa chớ. Thưở sinh thời, đã biết bao lần nhà văn của chúng ta từng phải sống qua những ngày tháng hốt hoảng và tuyệt vọng:

  • “Bàng hoàng khi biết mình có ‘đuôi’…. Anh như ngửi thấy cái mùi của nhà tù. … Đó là đòn đánh ngang đầu. Là đất sụt nơi mình đứng. Là cuộc đời bỗng nhiên không còn là cuộc đời nữa… có cảm giác của một con thú bị nhốt trong chuồng lồng lộn nhưng không sao thoát được. Thì ra họ có toàn quyền làm những việc họ thích. Họ huy động cả guồng máy khổng lồ để hại mình.” (Bùi Ngọc Tấn. Chuyện Kể Năm 2000, tập I. CLB Tuổi Xanh, Westminster, CA: 2000).
  • “Tôi thấy rợn hết cả người khi nghĩ đã có mấy thế hệ theo dõi tôi, săn đuổi tôi, vu cáo tôi. Họ đã già đi. Ðã về nghỉ, hưu trí an nhàn. Nhiều người đã chết. Một thế hệ khác tiếp tục việc theo dõi. Rồi một thế hệ tiếp theo nữa. Ðời này sang đời khác.” (Bùi Ngọc Tấn. Hậu Chuyện Kể Năm 2000. Tiếng Quê Hương. Fallchurch, VA: 2014).

Cho mãi đến khi từ giã cõi đời, Bùi Ngọc Tấn mới hết bị “theo dõi” và mới hoàn toàn thoát khỏi “cái cảm giác như một con thú bị nhốt trong chuồng.” Thế mà cái “con thú” này bất ngờ lại được lên tên đường, và cận kề với toàn danh nhân (của ngành công an) những nhân vật “toàn quyền làm những việc họ thích” và có thể “huy động cả guồng máy khổng lồ để hại” người cỡ như Trần Quốc Hoàn, Mai Chí Thọ, Phạm Hùng … thì rõ ràng là một chuyện rất … hãi hùng – một cơn ác mộng – chớ còn gì nữa? Không khéo Bùi Ngọc Tấn lại “rơi đánh xoáng một cái” như không!

Tương tự, tôi e rằng Văn Cao cũng không cảm thấy vinh dự hay hạnh phúc gì cho lắm (sau một kiếp “sống trong một cái chăn toàn rận”) khi ông bị đặt nằm giữa những con phố đầy rẫy bất trắc và tệ đoan xã hội:

– “Quét Gái Mãi Dâm Trên Đường Nguyễn Chí Thanh” – báo An Ninh Thủ Đô

– “Đột Nhập Động Mãi Dâm Trên Đường Phạm Văn Đồng” – báo Người Đưa Tin

– “Bắt Kẻ Giao Hàng Trắng Dọc Đường Trường Chinh” – báo An Ninh Thủ Đô

– “Trộm Vàng Táo Tợn Trên Đường Xuân Thuỷ” – báo VietNamNet

–  “Phóng Viên Truy Đuổi Đối Tượng Trộm Cắp Trên Đường Phạm Hùng” –   báo An Ninh Thủ Đô

– “Dàn Cảnh Cướp Xe Trên Đường Hồ Chí Minh” – báo Dân Trí

-“Xe Buýt Lại Tông Người Trên Đường Lê Duẩn” – báo Người Lao Động

– “Xuất Hiện Hố Tử Thần Trên Đường Trần Quốc Hoàn” – báo Lao Động

-“Tảng Đá Chục Tấn Rơi Trên Đại Lộ Nguyễn Tất Thành” – Báo Mới

– “Ôtô Điên Trên Đường Tôn Đức Thắng” – Báo Mới

-“Đột Kích Hàng Loạt Tụ Điểm Mát Xa Kích Dục Trên Đường Nguyễn Duy Trinh” – Báo Vnexpress.

Sau 83 năm đô hộ Việt Nam – ngoài những tội ác vô phương chối cãi – người Pháp cũng đã để lại cho xứ sở này những thành quả hiển nhiên, thuộc nền văn minh chung của toàn thể nhân loại: hệ thống cầu cống, giao thông, y tế, giáo dục, ngân hàng, bưu điện, bệnh viện, thư viện, kiến trúc… Nói theo bác Nguyễn Gia Kiểng là “Pháp đã còng tay Việt nam và dẫn vào thời đại mới.”

Sau đó, dân Việt bị còng tay (chặt hơn) bởi những người cộng sản rồi buộc phải… đi lùi! Đó là lý do tại sao trước khi được “vinh hạnh” mang tên “những vị anh hùng cách mạng,” phố phường Hà Nội (nói riêng) và của cả nước (nói chung) sạch sẽ và an lành hơn hiện cảnh rất nhiều.

Điều phiền phức và rắc rối hiện nay là dân Việt không còn chỗ để có thể lùi được nữa. Họ đã bị đẩy đến tận chân tường rồi. Bởi thế, những người cộng sản khó mà có thể tiếp tục giữ được quyền bính trong những ngày tháng tới.

Khác với chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa cộng sản khi sụp đổ không để lại nơi phần đất mà nó cai trị bất cứ một thứ thành quả nào – ngoài bạo lực, nghèo đói, dốt nát, dối trá, và vô số những con đường (cũng như những ngôi trường, những cơ quan, dinh thự …) buộc phải thay tên!

Đến lúc đó, có lẽ, vẫn chưa muộn để “Nam Định có phố Trần Dần, Bắc Ninh có phố Hoàng Cầm, Thanh Hóa có phố Hữu Loan, Yên Bái có phố Lê Đạt, Thừa Thiên-Huế có phố Phùng Quán …  Và Hải Phòng có phố Bùi Ngọc Tấn” – như giấc mơ của Dương Tường.