„với các quốc gia Á châu như Việt Nam, Trung Hoa, Đại Hàn, Nhật Bản là một tấm gương sáng để học hỏi, noi theo.

Sự phát triển thần thánh đó được đem đến từ những chính sách canh tân tuyệt vời của Minh Trị Thiên Hoàng, vị vua thứ 122 của Nhật Bản.“

 

 Lưu An-Vũ Ngọc Ruẩn  

Thiên Hoàng Minh Trị. (Hình: Không rõ tác giả-Wikipedia.org)

 

Không một ai có thể phủ nhận được sự phát triển thần kỳ của Nhật Bản về mọi lãnh vực với thời gian khoảng 30 năm, bắt đầu từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20.

Sự thay đổi này đã biến một nước Nhật nghèo đói, loạn lạc kéo dài hàng nhiều thế kỷ thành một Nhật Bản phú cường làm rúng động thế giới. Nhật Bản đã làm cho các quốc gia thực dân Âu Mỹ phải lo sợ và cảm phục. Với các quốc gia nhược tiểu, đói nghèo và  khổ sở với xiềng xích nô lệ của ngoại bang đã có niềm tin vào tương lai nếu biết thay đổi. Đặc biệt với các quốc gia Á châu như Việt Nam, Trung Hoa, Đại Hàn, Nhật Bản là một tấm gương sáng để học hỏi, noi theo.

Sự phát triển thần thánh đó được đem đến từ những chính sách canh tân tuyệt vời của Minh Trị Thiên Hoàng, vị vua thứ 122 của Nhật Bản. Nhìn vào lịch sử của những quốc gia Á châu trong thời đại đó, nhiều quốc gia khác, cũng có những vị vua đầy lòng yêu nước, với những chính sách điều hành quốc gia rất khôn ngoan, nhưng tại sao họ cũng không đạt được những thành quả thần kỳ như Nhật Bản. Chẳng hạn như Thái Lan, quốc gia khôn khéo trong ngoại giao, và là đất nước duy nhất trong Á châu không bị ngoại bang chiếm đóng từ khi lập quốc, nhưng cũng không có được sự phát triển thần kỳ như Nhật Bản.

Những yếu tố quan trọng nào đem đến sự thành công từ những chương trình canh tân của Minh Trị Thiên Hoàng?

 

1.Phẩm chất con người của Minh Trị Thiên Hoàng

Qua sách báo cũng như tài liệu viết về vị thiên hoàng tài ba, nỗi lạc được người dân Nhật Bản coi như thần thánh này. Thủa ấu thơ của ông không có gì là đặc hay vượt trội so với người khác. Ông cũng như nhiều hoàng tử hay thiên hoàng khác trước ông, chỉ rong chơi nơi hậu cung với đoàn thị nữ trong một triều đình bù nhìn kéo dài hơn 600 năm dưới sự kiềm chế của các thời đại Mạc Phủ (tương tự như phủ chúa Trịnh với nhà Lê trong lịch sử Việt Nam). Nhưng ông may mắn nhờ thời thế đưa đẩy, được những thành phần yêu nước giúp cho ông thoát ra khỏi sự áp bức của Mạc phủ (Tukugawa), nắm lấy quyền hành thực sự của một vị Thiên hoàng, chủ vị quốc gia. Từ vị trí đó ông có dịp phát triển tài năng của mình, mang đến cho đất nước những bước tiến nhẩy vọt trong tất cả lãnh vực.

Thiên Hoàng Minh Trị năm 16 tuổi, trong hành trình từ Kyōto về Tōkyō, vào cuối năm 1868. (Hình: Alfred Roussin-Wikipedia.org)

 

Một ý chí kiên cường

Lúc còn bé, ông là đứa trẻ nhút nhát, thể lực yếu đuối, sức học rất tầm thường. Chính sau này khi nhìn lại cá nhân mình ông đã ân hận vì tính lười học, không chăm chỉ của mình. Ông đã té xỉu và trốn vào lòng cung nữ khi nghe tiếng súng đánh nhau giữa các phiên bang trước hoàng cung… Nhưng khi lên ngôi, lúc 14 tuổi, với sự giúp đỡ và dậy bảo của triều thần ông đã thay đổi hoàn toàn. Từ một đứa trẻ nhút nhát, thiếu tự tin và lười học, ông trở thành thanh niên khỏe mạnh, yêu võ nghệ. Ham trau dồi kiến thức về tất cả lãnh vực, từ văn hoá, chính trị, lịch sử, khoa học và cả ngoại ngữ.

Năm 1878, khi 25 tuổi, sau hơn 10 năm học hỏi từ các thầy học do hoàng gia đề cử cũng như do chính ông kiên trì tìm tòi học hỏi, ông thực sự chấp chính. Ông có một niềm tự tin rất cứng chắc vào kiến thức và tài năng của mình trong việc lãnh đạo đất nước. Ông biết phân biệt kẻ gian, người ngay để phục chức hay trả ơn cho những công thần đã vì xã tắc và hoàng gia mà bị hãm hại. Khi có lộn xộn xẩy ra giữ các thành viên của ban cố vấn trong vấn đề phát triển đất nước, ông tự đứng ra điều hành, giải quyết và ổn định tình hình.

Ông nhìn rất rõ tài năng, đức độ của tất cả những quan lại, nhân sĩ chung quanh và cất nhắc cũng như sử dụng họ rất chính xác.

Thiên Hoàng Minh Trị, năm 1872. (Hình: Uchida Kuichi Tenno Yondai/Wikipedia.org)

 

Một vị vua bao dung

Với đức tính bao dung vị Thiên hoàng này đã được kính phục, trung thành và cả lòng hy sinh của quan tướng cũng như thần dân. Chẳng hạn cuộc nổi loạn Saga 1874 tại phiên bang Satsuma (thuộc tỉnh Kagoshima) do sự bất đồng giữa Samurai S. Takamori và các tướng lãnh khác về vấn đề Triều tiên. Cuộc nổi loạn chấm dứt khi S.Takamori thất bại và mổ bụng tự sát bị coi là kẻ phản nghịch, nhưng 12 năm sau ông biết Takamori là kẻ trung thành với ông, là vị samurai đáng kính, yêu nước. Ông đã cho chuộc lại danh dự cho S. Takamori, được thờ phượng như một vị anh hùng, được đúc tượng đặt ở công viên Ueno, trung tâm của Tokyo. Con của S. Takamori được ông phong tước hầu.

Năm 1903 vị tướng quân Tokugawa Keichi của Mạc Phủ Tokugawa, giòng họ đã tiếm quyền nhiều đời thiên hoàng của tổ tiên ông, nhưng khi khi ông dành lại được quyền lực, Tokugawa Keichi đã yết kiến, xin đầu hàng và sẵn sàng phục vụ cho tổ quốc đã được ông tha thứ và phong cho tước công .

Cũng vậy biết bao nhiêu các vị danh tướng khác, như Togo Haihachiro (tổng tư lệnh Hải quân); Oyama Iwao (Tổng tư lệnh Lục Quân); Nori Magesuke (Đại tướng lục quân) chỉ vì lòng bao dung, tin tưởng của ông mà họ đã mang đến cho ông những chiến thắng lẫy lừng trong các cuộc chiến tranh với Triều Tiên, với Mãn Thanh và với Nga Xô.

 

Một vị vua biết dùng người

Có lẽ đây là một đức tính tuyệt hảo, khó tìm thấy ở một vị hoàng đế quyền lực như ông, ngay từ thời mới lên ngôi cho đến hết cuộc đời ông (60 tuổi). Lúc còn trẻ ông sẵn sàng đón nhận những sự chỉ dẫn dậy bảo về tư cách, về văn hoá, đạo đức, lòng thương dân, yêu nước từ các vị quan của triều đình đến các vị tướng quân trong triều. Khi trực tiếp điều hành quốc gia, ông có những nhận xét hết sức chính xác về tài năng, đức độ của những người dưới quyền và đem cho họ tất cả lòng tin tưởng của ông.

Môt thí dụ điển hình, khi còn là cậu bé, ông đã nhìn thấy tài năng, đức độ của người bạn học của mình là Nori Magesuke và hứa sẽ sử dụng tài năng đó khi có dịp. Sau này khi ông nắm quyền ông đã làm đúng như lời hứa. Nhưng không may Magesuke đã có lỗi lầm trong chiến tranh, bị nhiều người dèm pha, yêu cầu ông loại bỏ. Tuy vậy, ông vẫn tin tưởng người bạn mà ông biết rất rõ. Cuối cùng người bạn đó là một vị anh hùng trong chiến tranh Nga Nhật (1905). Khi ông chết vì bệnh ung thư, N. Magesuke mổ bụng tự sát để thể hiện danh dự của tinh thần samurai, đem cái chết oai hùng để chuộc lại lỗi lầm mà mình đã phạm phải và cũng để trả ân tình vì lòng tin tưởng và bao dung của vị thiên hoàng, người bạn tấm bé của mình.

Năm 1912 Tướng quân Nogi Maresuke đã tự vẫn sau vua Minh Trị qua đời. (Hình: Maresuke_Nogi,_近世名士写真_/Wikipedia.org)

 

Một vị vua chăm chỉ và lý tưởng

Ông thay đổi lối sống, từ hình ảnh một vị vua uỷ mị, yếu đuối nhát sợ thành vị vua năng nổ, chịu học hỏi biết lo lắng cho dân và phát triển đất nước với khẩu hiệu: “Phú quốc, Cường binh.” Ông làm gương tiết kiệm và dâng hiến tài sản của hoàng gia cho việc xây dựng cơ sở đóng tầu chiến, cơ sở sản xuất võ khí cũng như khai thác hầm mỏ… Chính vì vậy chỉ sau hơn 30 năm số lượng tầu chiến cũng như độ tân tiến của hải quân Nhật Bản bỏ xa và dễ dàng chiến thắng Nga Xô trong cuộc chiến tranh 1904.

Ông coi nhẹ việc đến hậu cung hưởng lạc, giảm hơn 2/3 số lượng cung nữ để làm gương và tránh tổn phí. Ông bắt hoàng hậu cũng như cung nữ phải tham gia việc học để mở mang kiến thức về văn học, nghệ thuật cũng như khoa học văn minh Âu Mỹ.

Trong cuộc hội họp với quần thần về bản hiến pháp đầu tiên của Nhật Bản, ông không bỏ ngang cuộc họp quan trọng này dù biết tin người con gái của mình mất vì bệnh tật. Với khoảng 43 năm cầm quyền, ông luôn luôn là vị vua gương mẫu trong mọi lãnh vực cho quần thần và dân chúng. Hình ảnh một vị thiên hoàng tài năng, đức độ, yêu nước đã được dân chúng cũng như quan lại, binh sĩ lấy làm gương và coi ông như một vị thần để thờ kính và trung thành.

Thiên Hoàng Minh Trị, năm 1872. (Hình: Uchida Kuichi Tenno Yondai/Wikipedia)

 

 Vị Thiên hoàng luôn luôn bên cạnh binh sĩ

Ông luôn luôn nhắc nhở binh sĩ 5 điều căn bản của một người samuari chân chính, đó là: tận trung; lễ nghĩa; có lòng tín nghĩa; trọng võ dũng (can đảm) và tiết kiệm, giản dị. Trong đó “Tận Trung” được coi là quan trọng nhất. Những điều này không những được phổ biến trong quân đội mà còn được giảng dậy ở tất cả các cấp giáo dục từ mẫu giáo đến đại học.

Trong trận chiến tranh Nhật-Thanh (1894) ông dời bản doanh đến Hiroshima, một tỉnh Tây Nam Nhật, gần với chiến truyến để động viên tinh thần chiến đấu của binh sĩ. Chính ông đã phổ một bản nhạc mừng chiến thắng của binh sĩ và cũng chính ông chỉ huy cuộc đàm phán đem đến kết quả khốn khổ cho nhà Thanh, Trung Hoa với một bản hoà ước đầy đau thương và thiệt thòi vì phải bồi thường chiến tranh cho Nhật.

Cũng vậy trong cuộc chiến tranh Nga-Nhật (1904) ông lại dời bản doanh đến Hiroshima, ngay cạnh chiến tuyến để hô hào tinh thần chiến đấu của binh sĩ. Cuối cùng quân Nhật đè bẹp quân Nga hoàng với một chiến thắng làm cho thế giới ngỡ ngàng. Với chiến thắng này các quốc gia thực dân Tây phương phải giật mình vì lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại một quốc gia Á châu nhỏ bé đánh bại nhục nhã một quốc gia hùng mạnh da trắng phương Tây. Từ chiến thắng vang dội đó Triều tiên là thuộc địa của Nhật và sau đó được sát nhập vào lãnh thổ Nhật.

Dĩ nhiên trong lịch sử Nhật Bản còn ghi chép rất nhiều điều khác nữa liên quan đến phẩm chất của vị thiên hoàng kiệt xuất này. Vị Thiên hoàng đã làm thay đổi nước Nhật trong ngỡ ngàng của thế giới và của dân chúng. Tuy nhiên người ta cũng không thể phủ nhận được môt điều rất quan trọng, sự thành công ngoạn mục của những cải cách đó còn cần đến những yếu tố khác nữa, ngoài phẩm chất vô song của Minh Trị Thiên Hoàng.

Quân Nhật đánh bại quân Thanh năm 1894 tại Bình Nhưỡng. (Hình: Wikipedia.org)

 

 2.Tinh thần Samurai trong con người xã hội Nhật Bản

Một điều rất rõ ràng là Minh Trị Thiên Hoàng khi lên ngôi, lúc dành lại được vương quyền từ Mạc phủ Tokugawa , ông đã sở hữu một tinh thần rất mãnh liệt của giới quan lại, sĩ phu hết lòng yêu nước đã cùng đứng lên giúp đỡ ông. Giới sĩ phu đó là một dạng biến đổi từ thành phần qúi tộc mà trước đó người ta gọi là Samurai. Để hiểu rõ tinh thần này, chúng ta nên biết một cách sơ sài về sự thành hình của Samurai trong xã hội Nhật Bản.

Suốt chiều dài của lịch sử Nhật Bản luôn luôn được dựa trên tinh thần trọng võ nghiệp. Đặc biệt từ cuối thế kỷ thứ 8 và đầu thế kỷ thứ 9 triều đình Nhật bản đã trọng dụng những người võ dũng, sử dụng họ vào việc bảo vệ uy quyền của hoàng gia. Mặc dù dưới mắt giới qúi tộc và hoàng gia, giới võ sĩ này chỉ là những kẻ vũ phu, thất học. Nhưng với thời gian và sự cần thiết cho những dịch vụ bảo vệ tài sản hay an ninh cho các qúi tộc, quan lại… Thành phần vũ dũng đó càng lúc càng hữu dụng và được đưa vào hệ thống huấn luyện có bài bản về cả võ học và tư cách .

Đến thế kỷ 11 thành phần vũ dũng đó được xã hội kính trọng vì họ đúng nghĩa là người có văn võ song toàn (bunburyodo) và họ còn được triều đình ban hành riêng biêt cho họ một luật lệ riêng gọi là luật Võ sĩ đạo (Bushido), được xã hội kính trọng và gọi là Samurai.

Tư cách, tài năng cũng như thế lực của các chiến binh Samurai này càng lúc càng thăng hoa và họ dần dần thay thế các lãnh chúa, các thế lực qúi tộc cổ xưa, những người đã có thời là chủ nhân của họ. Đó là thời kỳ của những Mạc phủ Kamakura (cuối thế kỷ 12) và tiếp nối qua nhiều thời đại Mạc phủ khác nhau, kéo dài khoảng  700 năm (đến cuối thế kỷ 19). Các vị tướng quân lãnh đạo Mạc phủ hay lãnh đạo các các phiên bang phần lớn xuất thân từ một giòng dõi Samurai.

Samurai trở thành biểu tượng cho một giới võ sĩ đáng kính nể trong xã hội. Họ được luyện kiếm cung từ bé, được theo học văn hoá nghệ thuật (trà đạo, thi ca và cả hội hoạ…) Họ được tôi luyện trong tư tưởng trầm lặng, an nhiên của Phật giáo. Họ phải có đủ 3 yếu tố: Trung thành, Can đảm và Danh dự để giữ gìn 3 yếu tố này họ phải có thêm lòng tín nghĩa và tự trọng. Họ sẵn sang lấy cái chết bằng cách tự mổ bụng để chuộc lỗi lầm.

Tinh thần Samurai đó ăn sâu vào tâm thức của xã hội, con người Nhật Bản, hiện diện trong mọi lãnh vực và mọi thành phần của xã hội như một tài nguyên vô giá mà Minh Trị Thiên Hoàng cùng với ban tham mưu, cố vấn cũng như các vị thầy học của ông đã khôn ngoan tìm ra sách lược để khai thác tài nguyên đó. Tinh thần Samurai là một trong những yếu tố đem đến thành công của sự cải cách nước Nhật thành một cường quốc.

 

3.Nền giáo dục Nhật Bản

Trong khoảng 10 năm cuối cùng (1854-1864), Mạc phủ Tokugawa bị Mỹ và các quốc gia thực dân Âu châu như Anh, Pháp, Hoà Lan bắn phá và bắt ép phải ký những hiệp ước bất bình đẳng đã dấy lên phong trào yêu nước. Các sĩ phu cùng các thân vương trong triều đình ở Kyoto liên minh với các lãnh chúa, các Samurai từ của các phiên bang nổi lên lật đổ quyền lực của Mạc phủ, trả lại vương quyền cho Thiên Hoàng. Với ý hướng đó lực lượng chống đối Mạc Phủ đã phát động phong trào suy tôn Thiên Hoàng trong mọi tầng lớp quần chúng, đặc biệt trong lãnh vực giáo dục. Minh Trị Thiên Hoàng là người hiếu học, ham hiểu biết nên nền giáo dục đó đã tạo cho ông có tinh thần ái quốc và ôm rất nhiều tham vọng làm bá chủ thế giới. Ông có những cải cách được dân chúng và quan quân ủng hộ.

Trong dân chúng nền giáo dục còn được phát triển dữ dội hơn nữa. Hình ảnh Thiên Hoàng được coi như vị thần được suy tôn ở khắp mọi nơi, trường học, hội trường, cơ quan hành chánh, quân đội… Tất cả ý chí, tinh thần, vật chất của quốc gia, của dân chúng đều dành cho sự phục vụ và hy sinh cho Thiên Hoàng.

Chính vì nền giáo dục tuyệt đối, suy tôn Thiên Hoàng đó đã là một yếu tố rất mạnh mẽ, kết hợp được toàn dân, toàn quân thực hiện những chương trình cải cách của ông một cách dễ dàng. Đã thế ông lại là một vị minh quân nên kết quả càng tăng lên gấp bội. Chỉ với khoảng 30 năm đã biến đổi một nước Nhật Bản phong kiến, nghèo đói, loạn lạc thành một nước Nhật hùng mạnh trên thế giới.

 

4.Bản Hiến Pháp đầu tiên

Thời điểm Minh Trị Thiên hoàng lên ngôi, hầu hết các quốc gia Á châu đều dưới chế độ quân chủ chuyên chế. Dưới chế độ này quyền hạn của các vị vua được coi là là tuyệt đối, bất khả xâm phạm. Cái tuyệt đối đó không có một bản văn nào xác định sự đúng sai cũng như mức độ quyền hành của vị vua. Điều này có nghĩa là quyền hành được tuỳ tiện theo cảm xúc và lòng nhân từ hay ác độc của vị vua! Gặp vị vua nhân từ bác ái thì dân chúng được dễ thở. Trái lại gặp một hôn quân, ác độc thì dân tình điêu linh. Hành pháp, lập pháp cũng như tư pháp đều được tập trung vào tay vị vua hay trong tay của người nào mà vua tin dùng.

Khoảng 15 năm đầu tiên lên ngôi, Minh Trị Thiên Hoàng đem xã hội cũng như thần dân Nhật vào những chương trình cải cách toàn diện của ông. Dân trí Nhật dần dần gia tăng và cũng tiêm nhiễm những văn minh của quốc gia Tây phương, đó cũng là điều rất tự nhiên. Chính vì vậy người dân Nhật, nhất là những thành phần được xuất ngoại du học từ các nền văn minh Tây phương. Khi về nước họ phát động phong trào đòi hỏi triều đình phải có một bản hiến pháp để làm căn bản trong sư điều hành đất nước. Sau nhiều năm hứa hẹn, năm 1882 Thiên hoàng đã phải thành lập một phái đoàn đến các quốc gia Tây phương để tham khảo pháp luật, thể chế trong các bản hiến pháp của các quốc gia này.

Ban bố hiến pháp 1889. (Hình: Kenpohapu Chikanobu/Wikipedia.org)

 

Sau gần 7 năm trời với biết bao nhiêu công sức của phái đoàn cũng như sự giúp đỡ của các chuyên gia luật pháp trong cũng như ngoài quốc gia, phái đoàn quyết định đưa ra bản hiến pháp đầu tiên của Nhật Bản được dựa trên bản hiến pháp của Đức Quốc. Thiên Hoàng cùng triều đình lập ra một ban bí mật để soạn thảo hiến pháp. Cuối cùng, bản hiến pháp chính thức được thành hình và đưa ra công chúng làm nền tảng cho việc điều hành đất nước.

Qua những điều lệ trong bản hiến pháp này thì quyền hành của Thiên Hoàng ở vị trí điều hành quốc gia trong mọi lãnh vực từ hành pháp, luật pháp, tư pháp cũng như trong việc tuyên chiến khi có chiến tranh hay thay đổi sắc lệnh…  Thiên hoàng được coi là người có quyền lực vô biên đối với thần dân, được tôn vinh trong tư thế thiêng liêng, bất khả xâm phạm, không ai có quyền lực cản trở hay phản đối. Tóm lại bản hiến pháp chính thức thành hình xác định vị trí, quyền hành siêu việt của vị Thiên hoàng trước quốc dân và triều đình. Tuy nhiên nếu so sánh với thể chế quân chủ chuyên chế tại các quốc gia đương thời thì bản hiến pháp này đã có một bước tiến rất lớn và đã là tác động rất mạnh mang đến thành công của sự canh tân Nhật Bản của vị Thiên Hoàng anh minh này. Đó là:

-Xác định bằng văn bản quyền hạn, vị trí của Thiên hoàng, làm mất đi cái vẻ mù mờ, tuỳ hứng của vị vua dưới chế độ quân chủ chuyên chế . Nói cách khác vị Thiên Hoàng Minh Trị đã có một công thức để thực thi quyền hạn của ông. Ông phải dựa vào những điều ghi trong hiến pháp để thực thi đại quyền của mình, để ban bố sắc lệnh hay đưa ra các luật lệ mới sau khi đã được các quốc vụ đại thần xét duyệt và ký tên. Nghĩa là vẫn phải có nguyên tắc thẩm xét trước khi được thi hành.

Bản hiến pháp 1889 hạn chế và còn là một kim chỉ nam hướng dẫn Thiên hoàng trong việc điều hành quốc dân và đất nước, thay đổi chế độ Quân chủ chuyên chế thành chế độ quân chủ lập hiến mà nhiều quốc gia Tây phương đang thực hành.

Nhờ có bản hiến pháp văn minh và thức thời này mà Minh Trị Thiên Hoàng có thêm quyền lực và tự tin trong các cuộc canh tân. Cũng nhờ bản hiến pháp này ông có uy quyền để tận dụng mọi nỗ lực của đất nước và dân chúng trong việc thực hành các chương trình to lớn, như đổ dồn tài chánh vào lập nhà máy đóng tầu, chế tạo vũ khí…

5.Phẩm chất của dân Nhật

Có lẽ một yếu tố khác không kém phần quan trọng đã đóng góp vào thành quả vĩ đại của những chương trình canh tân nước Nhật của Minh Trị Thiên Hoàng, đó là phẩm chất của người dân. Thật vậy đã hơn một thế kỷ nay kể từ khi Minh Trị Thiên Hoàng lên ngôi, đất nước Nhật Bản được thế giới cảm phục, không phải chỉ vì là quốc gia cường thịnh về quân sự hay kinh tế mà thế giới còn cảm phục những đức tính của người Nhật.

Qua sách báo cũng như lịch sử, người ta dễ dàng tìm được những chứng cớ cho biết những đức tính này đã hiện hữu từ xa xưa trong con người Nhật Bản chứ không phải đến thời Minh Trị mới có. Minh Trị Thiên Hoàng chỉ là vị vua đức độ, khôn ngoan đã tạo ra được những kích thích cho những đức tính đó phát lộ và hữu ích cho những cuộc canh tân của ông mà thôi.

Những đức tính mà cả thế giới đều phải công nhận và luôn luôn đề cập đến khi nói đến người Nhật. Người ta có thể dễ dàng nhìn thấy những đức tính này thể hiện rất rõ ràng ở hầu hết người dân ở trong nước cũng như trên thế giới nơi mà họ đến làm việc hay định cư, du lịch. Tính kết đoàn, có thứ tự trên dưới, trọng luât pháp, tự trọng, trách nhiệm với công việc, chăm chỉ và tài bắt chước kèm theo tính sáng tạo để làm tốt, làm đẹp hơn (khác với tài bắt chước thụ động nhằm mục đích sản xuất hàng giả của nhiếu dân tộc khác).

Chỉ với khoảng 20 năm canh tân, gửi sinh viên và quan lại đi học kỹ thuật của Tây phương, mà Nhật đã có một nền công nghệ vượt trội các quốc gia thực dân phương Tây. Có đội chiến thuyền, khí tài tân tiến, cường mạnh đem đến cho họ những chiến thắng lẫy lừng trong các trân chiến tranh trên biển cũng như trên đất liền. Ngày nay đặc tính tốt của dân Nhật vẫn duy trì trong khuôn thước giáo dục của xã hội, trường học và gia đình.

***

Những yếu tố kể trên không thể diễn tả đầy đủ tất cả nguyên nhân đã đem đến thành công vĩ đại của những chính sách canh tân Nhật bản của Minh Trị Thiên Hoàng được. Nhưng một điều chắc chắn mà không ai có thể phủ nhận được đó là, với chính sách canh tân này đã biến đổi nước nghèo đói, loạn ly triền miên vì các sứ quân tranh dành lãnh địa… đã thành một quốc gia hùng cường thuộc hạng nhất thế giới vào thời Minh Trị và cũng làm căn bản cho một nước Nhật thịnh vượng cho đến ngày nay. Sự biến đổi thần kỳ đó phải là một sự kết hợp hài hoà, tuyệt vời giữa vị vua thông minh, tài đức cùng với một triều đình hoàn hảo gồm những quần thần, tướng  quân gương mẫu, có lòng ái quốc và hết lòng phục vụ quốc gia, dân tộc.  Bên cạnh lãnh vực cầm quyền lãnh đạo đó người ta cũng không phủ nhận được một yếu tố rất rõ ràng và quan trọng cho sự thành công đó là phẩm chất của quốc dân.

Quốc tang Minh Trị Thiên Hoàng năm 1912. (Hình: Asahi Shimbun/Wikipedia)

 

Để kết luận cho bài viết, tôi xin kể ra đây một câu truyện trong một buổi gặp mặt giữa gia đình chúng tôi và môt số bạn bè Nhật tại Thuỵ Sĩ. Vài người trong nhóm là bác sĩ, là giáo sư, đang công tác trong chương trình trao đổi khoa học giữa Thuỵ Sĩ và Nhật Bản. Vài người khác là thầy cô giáo hay nhân viên của trường trung học Nhật Bản hay công ty thương mại Nhật Bản ở Thuỵ Sĩ và dĩ nhiên cũng có vài người là kiều dân Nhật định cư tại Thuỵ Sĩ.

Trong cuộc nói chuyện, hầu hết họ lo lắng khi đề cập đến hoàn cảnh khó khăn của đất nước họ. Nhật Bản quá nghèo tài nguyên thiên nhiên, đang gặp những rắc rối thù hận với vài quốc gia lận cận, nhất là với Trung Hoa đã làm ảnh hưởng rất nhiều đến nền kinh tế. Thấy tôi có tí chút hiểu biết về lịch sử, văn hoá Nhật, họ hỏi tôi nghĩ sao về tương lai đất nước này. Tôi đã trả lời họ như sau:

“Nếu hỏi tôi về tương lai nước Nhật ra sao trong khoảng ngàn năm sau này, kiến thức của tôi không đủ để dự đoán được. Nhưng nếu nhìn về tương lai Nhật với vài, ba trăm năm nữa, tôi tin tưởng quốc gia này vẫn là một trong nhóm các quốc gia thịnh vượng và giầu có trên thế giới. Khi nói đến tài nguyên thiên nhiên, chúng ta không nên quá gò bó quá vào lãnh vực vật chất mà sai lầm! Theo tôi tài nguyên thiên nhiên, ngoài ý nghĩa cổ điển đó còn phải bao gồm những cái không chân dung, chẳng hạn như phẩm chất người dân, tài đức của giới lãnh đạo và cả mức độ dân trí của người dân của quốc gia đó nữa mới thực tế và chính xác hơn. Với quan niệm đó, theo tôi Nhật Bản không phải là quốc gia nghèo, mà rất giàu có về tài nguyên. Như vậy thì chẳng có lý do nào mà Nhật Bản lại không có một tương lai bền vững trong vị trí của nhóm quốc gia cường thịnh cả.”

Nghe tôi nói như vậy, tất cả mọi người vỗ tay, họ bắt tay tôi với những nụ cười thân thiện, cám ơn. Một trong số họ nói với tôi: “Ông là một người ngoại quốc yêu nước Nhật hơn cả người Nhật.”

 

Lưu An-Vũ Ngọc Ruẩn 

 

Saigon Nhỏ (17.07.2024)

 

 

 

Tài liệu tham khảo:

 

-Tân Nhật Bản đạo đức giáo dục (Shin Nihon Doutoku Kyoiku)

-Wikipedia

-Những sự chỉ dẫn của các vị giáo viên, giám học, hiệu trưởng người Nhật đang làm việc tại các cơ sở giáo dục trong và ngoài Nhật Bản.

-Giáo dục Nhật Bản hiện đại,  Đoàn Văn An,  Saigon 1965

-Nhật Bản giáo dục sử học (Nihon Kyoiku Shi) A. Takashi

-Minh Trị Thiên Hoàng đấng minh quân (Japan .net.vn)

-Thiên Hoàng Minh Trị, Phụng Nguyễn Trọng

-Thiên Hoàng Minh Trị, duy tân nước Nhật 1868, Thanh Giang (power)