„Đây là một phần của chiến lược rộng lớn hơn của Trung cộng nhằm tạo ra phiên bản Học thuyết Monroe riêng,…
Nước cờ của Trung cộng là phép thử cho vị trí và uy tín của Hoa Kỳ tại Châu Á. Tương tự như vậy, Trung cộng đang thách thức Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á.“
Robert A. Manning, Patrick M. Cronin
Vũ Quốc Ngữ – Ngân Bình dịch
Bắc Kinh đã gia tăng áp lực lên các nước láng giềng nhằm thống trị toàn bộ Biển Đông.
Trong khi thế giới bị phân tâm vì đại dịch virus corona, Trung cộng đã âm thầm sử dụng các hoạt động bán quân sự và chính trị-pháp lý ở Biển Đông nhằm thay đổi cục diện ở khu vực. Cho rằng Hoa Kỳ đang tập trung ở nơi khác và mệt mỏi sau nhiều năm lấn chiếm của Trung cộng, những nỗ lực của Bắc Kinh đang tiến đến một điểm không thể cứu vãn. Trung cộng muốn ép buộc các nước láng giềng trên biển từ bỏ yêu sách và quyền lãnh thổ theo luật pháp quốc tế và thay đổi hiện trạng theo hướng không thể đảo ngược. Bắc Kinh tìm cách áp đặt cái gọi là đường chín đoạn, một ranh giới không được công nhận chiếm khoảng 85% Biển Đông, gần như toàn bộ diện tích trong vùng biển quốc tế này, nơi có 3,4 nghìn tỷ đô la hàng hóa được tự do vận chuyển mỗi năm, ít nhất là bây giờ.
Các tuyên bố của Trung cộng đối với các đảo nhỏ và rạn san hô đang tranh chấp bao gồm quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, hay theo cách gọi của Trung cộng là Tây Sa và Nam Sa, có một cơ sở đáng nghi ngờ về luật pháp quốc tế, và thay vào đó dựa đường chín đoạn trên Biển Đông. Trên một số trong các đảo nhỏ này, nơi Bắc Kinh đã khai hoang và đặt căn cứ quân sự trùng lặp với vùng thuộc yêu sách của Mã Lai, Phi Luật Tân, Việt Nam và Brunei. Đường lưỡi bò đầu tiên do chính phủ Tưởng Giới Thạch vẽ vào năm 1947 và vào năm 1952 được Mao Trạch Đông sửa lại. Năm 2009, trong một công hàm ngoại giao gửi đến Ủy ban về Giới hạn Thềm Lục địa, Trung cộng đã đính kèm bản đồ đường chín đoạn và tuyên bố rằng họ có chủ quyền không thể chối cãi đối với các đảo ở Biển Đông và vùng biển lân cận, và được hưởng quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với vùng biển có liên quan cũng như đáy biển và lòng đất ở đó. Kể từ đó, Bắc Kinh ngày càng gia tăng thúc đẩy yêu sách này, luôn khai thác sự mơ hồ của các thuật ngữ như “liền kề” và “liên quan”
Đừng quên rằng các yêu sách của Bắc Kinh về cơ bản không tương thích với luật pháp quốc tế về hải phận, Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển, luật mà Trung cộng đã phê chuẩn và theo đó họ tuyên bố tuân thủ. Cũng đừng quên rằng, các tuyên bố chủ quyền đã bị tòa án quốc tế ở The Hague bác bỏ. Đây là một phần của chiến lược rộng lớn hơn của Trung cộng nhằm tạo ra phiên bản Học thuyết Monroe riêng, chính sách thế kỷ 19 khi Hoa Kỳ tuyên bố kiểm soát toàn bộ khu vực Bắc và Nam Mỹ nhằm loại trừ ảnh hưởng của các cường quốc châu Âu. Bắc Kinh tìm kiếm một phạm vi ảnh hưởng quyết đoán với khả năng phòng thủ quân sự để khiến Hoa Kỳ phải trả giá rất cao nếu muốn can thiệp. Nói tóm lại, trong khi thế giới chiến đấu với COVID-19, Trung cộng đang tiến gần hơn đến việc thống trị khu vực.
Những hành động này, và phản ứng của Hoa Kỳ và các nước trong khu vực, sẽ xác định xem tương lai của khu vực sẽ là một khu vực cởi mở và chia sẻ thịnh vượng hay khu vực đầy mâu thuẫn và xung đột.
Cách diễn giải duy nhất cho những hành động của Bắc Kinh là họ cố tạo ra chuyện đã rồi. Vào ngày 18/4, Trung cộng tuyên bố thành lập hai khu hành chính mới, một ở đảo Đá Chữ Thập, một hòn đảo nhân tạo ở quần đảo Trường Sa và một trên đảo Phú Lâm ở Hoàng Sa. Bắc Kinh đã đặt tên cho 80 đảo nhỏ và rạn san hô, bao gồm không chỉ các đảo nhân tạo mà còn 55 thực chìm dưới nước vĩnh viễn. Những hành động nàylà nhằm để tạo sự kiện mới để củng cố tuyên bố rằng Trung cộngđang kiểm soát 1,4 triệu dặm vuông trên Biển Đông.
Để thực thi những yêu sách này trong năm qua, Trung cộng đã gia tăng áp lực bằng cách đưa ba lực lượng hải quân bao gồm các đội tàu chiến của Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Hoa, lực lượng hải cảnh bảo vệ bờ biển và dân quân biển đến vùng biển ngoài khơi của Nam Dương, Mã Lai, Việt Nam và Phi Luật Tân. Việc đánh bắt cá bất hợp pháp của Trung cộng này đã khiến Nam Dương tăng cường hoạt động hải quân, như đánh chìm hơn một chục tàu đánh cá Hoa Lục quanh quần đảo Natuna, nơi được quốc tế công nhận thuộc vùng biển Nam Dương. Thay vì rút đi, Trung cộng tiếp tục cho đánh bắt cá bất hợp pháp quanh quần đảo Natuna vào cuối tháng 3. Trong khi Trung cộng không tranh chấp chủ quyền của Nam Dương đối với khu vực này, Bắc Kinh đưa ra tuyên bố vô lý rằng đây là “ngư trường truyền thống của Trung cộng từ thời cổ đại”, như thể ngư dân Nam Dương, Mã Lai hoặc Việt Nam (mà tàu của họ bị Trung cộng quấy rối có hệ thống) không tồn tại trước đây.
Đáng ngại hơn, Bắc Kinh đã gia tăng bành trướng trong năm qua bằng cách đe dọa các dự án dầu khí lớn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) được quốc tế công nhận của Mã Lai và Việt Nam. (EEZ của một quốc gia kéo dài 200 hải lý tính từ bờ).
Vào cuối tháng 4, một tàu khảo sát của Trung cộng được tàu hải cảnh hộ tống đã quấy rối một tàu thăm dò của công ty dầu khí Petronas, Mã Lai ngay trong trong khu vực EEZ của Mã Lai.
Việc đe dọa tập trận diễn tiếp sau những đối đầu tương tự vào năm ngoái. Trước khi đến Mã Lai, tàu khảo sát qua vùng EEZ của Việt Nam gần địa điểm xảy ra sự cố trước đó. Năm 2019, các tàu Trung cộng và Việt Nam đã ngăn chặn nhau thăm dò 5 khối dầu khí bên trong vùng EEZ của Việt Nam. Điều này đã làm dấy lên lo ngại trong khu vực rằng Trung cộng đang cố gắng phá huỷ và dần dần bóp nghẹt các hoạt động khai thác dầu khí của Mã Lai và Việt Nam trong khu vực và xóa bỏ các yêu sách lãnh thổ của họ. Cái giá cho Mã Lai sẽ rất lớn nếu Petronas phải ngưng các dự án quan trọng. Tương tự, Hà Nội lo ngại rằng ExxonMobil và Rosneft có thể từ bỏ các dự án ở vùng biển Việt Nam nếu Trung cộng tiếp tục quấy rối.
Nước cờ của Trung cộng là phép thử cho vị trí và uy tín của Hoa Kỳ tại Châu Á. Tương tự như vậy, Trung cộng đang thách thức Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), nơi tập hợp các quốc gia phản đối sự bành trướng của Trung cộng nhưng chẳng làm gì khác hơn ngoài hùng biện và ngoại giao. Hoa Kỳ tuy không có yêu sách lãnh thổ nhưng có lợi ích lâu dài về tự do hàng hải. Cho đến nay, phản ứng của Hoa Kỳ đối với sự hiếu chiến của Trung cộng chủ yếu là lên án ngoại giao và tăng cường tự do hoạt động hàng hải của Hải quân Hoa Kỳ trong vùng biển quốc tế mà Trung cộng tuyên bố chủ quyền. Các hoạt động này là cần thiết nhưng không đủ, vì không có tác động rõ ràng gì đến hành vi của Trung cộng cho đến nay. Tương tự như vậy, trong khi lên án Bắc Kinh, ASEAN đã mất gần 20 năm vô ích để cố đàm phán về một bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông với Bắc Kinh.
Vai trò trung tâm trong việc phản đối Trung cộng sẽ thuộc về ASEAN, một liên minh tiềm năng mạnh mẽ của 10 quốc gia với 625 triệu dân và gần 3 nghìn tỷ đô la GDP. Nhưng bởi vì các quyết định của ASEAN đòi hỏi phải có sự đồng ý nhất trí, hành động mạnh mẽ đã bị chặn bởi hai thành viên Campuchia và Lào, được coi là thân thiết với Bắc Kinh, cho phép Trung cộng quyền phủ quyết thực tế trong ASEAN. ASEAN cần xây dựng lại cơ chế ra quyết định . Nếu ASEAN không thể có ý chí hành động chung, thì những thành viên ASEAN có ý muốn nên thành lập một khối hàng hải như một liên minh riêng.
Hành động táo bạo hơn ở châu Á cũng đòi hỏi sự lãnh đạo đáng tin cậy của Hoa Kỳ. Những thành viên trong khu vực lo ngại rằng việc khiêu khích Trung cộng sẽ dẫn đến de doạ kinh tế. Nhưng những hành động gần đây của Bắc Kinh đã làm dấy lên một phản ứng mạnh mẽ khác thường của các quốc gia ASEAN thường xuyên chịu áp lực của Trung cộng. Các quốc gia Đông Nam Á có hải phận nhận thức sâu sắc rằng nếu không hành động sẽ giúp Bắc Kinh kiểm soát vĩnh viễn các hoạt động kinh tế và quân sự ở Biển Đông, đó sẽ là một đòn chí mạng cho quyền tự chủ chiến lược của họ. Do đó, thời gian đã chín muồi cho một liên minh do Hoa Kỳ lãnh đạo. Nếu Hoa Kỳ, Nhật Bản và Úc đi đầu trong việc xây dựng một bộ quy tắc ứng xử cho Tây Thái Bình Dương dựa trên luật pháp quốc tế được công nhận và thành lập các tổ chức pháp lý hàng hải, thì đó sẽ là hành động khôn ngoan.
Nếu ASEAN có thể có hành động tập thể, quyền lực của Trung cộng đối với các nước thành viên sẽ tiêu tan. Ngược lại, chiến thuật bắt nạt của Bắc Kinh chỉ có hiệu quả nhất khi chia rẽ và cô lập được các nước láng giềng. Sau khi lực lượng Hải cảnh Trung cộng đánh chìm một tàu cá của Việt Nam và làm tám ngư dân bị thương vào ngày 3/4, Bộ Ngoại giao Phi Luật Tân đã có một hành động hiếm hoi bày tỏ sự ủng hộ Việt Nam. Bắc Kinh đã lưu ý đến điều đó. Tương tự, cũng có sự khác biệt khi Việt Nam giải cứu ngư dân Phi Luật Tân bị mắc kẹt năm ngoái sau khi tàu của họ bị một tàu dân quân Trung cộng đâm chìm.
Ngăn chặn việc Tây Thái Bình Dương trở thành cái ao nhà của Trung cộng đòi hỏi phải hợp tác để bảo vệ đối tác và luật pháp quốc tế. Các quốc gia hàng hải như Phi Luật Tân, Việt Nam, Nam Dương, Mã Lai và Brunei nên tăng cường hợp tác bằng cách phối hợp các hoạt động của lực lượng tuần duyên, tăng cường chia sẻ thông tin tình báo và đạt được thỏa thuận về cách phân định ranh giới trên biển ở Biển Đông.
Trong khi đó, Hoa Kỳ nên làm chất xúc tác cho hệ thống phòng thủ khu vực bằng cách tài trợ cho Sáng kiến Răn đe Ấn Độ-Thái Bình Dương, tài trợ quân sự và tăng cường các hoạt động trước đây. Nếu kế hoạch chiếm Biển Đông của Trung cộng thành công, đó sẽ là một đòn giáng mạnh vào uy tín của Hoa Kỳ, vô hiệu hoá các liên minh và quan hệ đối tác của Hoa Kỳ trong khu vực.
Trung cộng hiểu điều đó, và ASEAN và Hoa Kỳ cũng phải hiểu điều đó.
Robert A. Manning
*Robert A. Manning là thành viên cao cấp của Trung tâm Chiến lược và An ninh Brent Scowcroft tại Hội đồng Đại Tây Dương và là cựu quan chức của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ trong thời chính quyền George W. Bush. Twitter: @ Rmanning4
*Patrick M. Cronin là chủ tịch của An ninh châu Á-Thái Bình Dương tại Viện Hudson và là cựu quan chức USAID trong chính quyền George W. Bush.
Robert A. Manning và Patrick M. Cronin, Foreign Policy, ngày 14/5/2020
Nguồn: https://foreignpolicy.com/2020/05/14/south-china-sea-dispute-accelerated-by-coronavirus/