Vũ Văn Lê, dịch
20-8-2021
Afghanistan không đánh dấu sự kết thúc của kỷ nguyên Mỹ. Thách thức đối với vị thế toàn cầu của Hoa kỳ chính là tình trạng chia rẽ nội bộ.
Những hình ảnh khủng khiếp về cảnh người dân Afghanistan tuyệt vọng cố gắng tìm cách thoát khỏi Kabul trong tuần này sau khi chính quyền do Hoa Kỳ hậu thuẫn sụp đổ đã tạo ra một chuyển khúc mới cho lịch sử thế giới, khi Hoa kỳ quay lưng lại với cộng đồng quốc tế. Thật ra kỷ nguyên Hoa Kỳ đã kết thúc sớm hơn nhiều. Nguồn gốc lâu dài của sự suy yếu và thoái hóa xuất phát từ nội địa hơn là quốc tế. Hoa kỳ vẫn là cường quốc trong những năm tới, nhưng ảnh hưởng của nước Mỹ sẽ ra sao, tùy thuộc nhiều vào khả năng khắc phục các vấn đề nội bộ hơn là chính sách đối ngoại.
Hoa kỳ đã đánh giá quá cao hiệu quả của sức mạnh quân sự trong việc thay đổi chính trị cơ bản, và coi thấp ảnh hưởng của kinh tế thị trường tự do đối với tài chính toàn cầu. Thập kỷ kết thúc với việc quân lực Mỹ sa lầy trong hai cuộc chiến chống nổi dậy và một cuộc khủng hoảng tài chính quốc tế làm nổi bật những bất bình đẳng lớn mà toàn cầu hóa do Mỹ dẫn đầu đã tạo ra.
Mức độ đơn cực trong thời kỳ này tương đối là điều hiếm hoi trong lịch sử, và thế giới đã trở lại trạng thái bình thường, đa cực hơn kể từ đó, với Trung Quốc, Đại Nga, Ấn Độ, Châu Âu và nhiều trung tâm khác giành được quyền lực so với Mỹ. Cuối cùng, về phương diện địa chính trị ảnh hưởng của Afghanistan có thể rất nhỏ nhoi. Trước đó, Mỹ đã sống sót sau thất bại nhục nhã rút khỏi Việt Nam năm 1975, để rồi nhanh chóng khôi phục vị thế thống trị của mình trong vòng hơn một thập kỷ, và ngày nay Hoa kỳ hợp tác với Việt Nam để kiềm chế chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc. Nước Mỹ vẫn có nhiều lợi thế về kinh tế và văn hóa mà ít quốc gia nào có thể sánh kịp.
Bình thường, một mối đe dọa lớn từ ngoài như đại dịch toàn cầu sẽ là cơ hội để mọi công dân tập hợp xung quanh một đáp ứng chung ;nhưng cuộc khủng hoảng covid-19 đã làm sâu sắc thêm sự chia rẽ của nước Mỹ trong các vấn đề cách ly, đeo khẩu trang…, và hiện thời tiêm chủng không còn được coi là biện pháp y tế công cộng, mà thường bị lên án như hành vi chính trị.
Mâu thuẫn đã lan rộng đến tất cả mọi khía cạnh của cuộc sống, từ thể thao đến các nhãn hiệu sản phẩm tiêu dùng mà “người Mỹ đỏ và người Mỹ xanh” thường mua sắm. Bản sắc công dân Mỹ tự hào trong nền dân chủ đa chủng tộc thời kỳ hậu dân quyền đã được thay thế bằng những câu chuyện chiến tranh năm 1619 so với năm 1776, có nghĩa là đất nước được thành lập dựa trên chế độ nô lệ hay đấu tranh cho tự do. Xung đột này mở rộng đến những thực tế riêng biệt mà mỗi bên đều tin rằng chỉ họ mới nhận thức được thực tế, chẳng hạn cuộc bầu cử vào tháng 11 năm 2020 đã được coi, hoặc là một trong những cuộc bầu cử công bằng nhất trong lịch sử Hoa Kỳ, hoặc là vụ gian lận lớn dẫn đến một nhiệm kỳ tổng thống bất hợp pháp.
Trong suốt thời chiến tranh lạnh và đầu những năm 2000, giới tinh hoa Hoa kỳ đã đồng thuận mạnh mẽ trong việc duy trì vị trí lãnh đạo chính trị thế giới. Vì chiến tranh khốc liệt, dường như bất tận ở Afghanistan, Iraq đã khiến nhiều người Mỹ chán chường chua chát, không chỉ riêng đối với nơi khó khăn như Trung Đông, mà còn với mọi can dự quốc tế nói chung.
Thế nhưng có đồng thuận rõ ràng trong vấn đề Trung Quốc: cả Cộng hòa lẫn Dân chủ đều đồng ý nước Tầu là mối đe dọa đối với các giá trị dân chủ. Nhưng điều này cũng chỉ mới xuất hiện trên nước Mỹ. So với Afghanistan, một thử thách lớn hơn nhiều cho chính sách đối ngoại Mỹ sẽ là Đài Loan. Một khi nước này bị Trung Quốc tấn công trực tiếp, liệu rằng Hoa Kỳ sẽ sẵn sàng hy sinh con cái mình cho nền độc lập của quần đảo? Hay ở một nơi khác, liệu Hoa Kỳ sẽ mạo hiểm xung đột quân sự với Nga nếu nước này xâm chiếm Ukraine? Đây là những câu hỏi nghiêm túc không thể trả lời dễ dàng, nhưng một cuộc tranh luận về lợi ích quốc gia có thể sẽ được tiến hành chủ yếu qua lăng kính: vấn đề sẽ ảnh hưởng thế nào đến tranh chấp giữa hai đảng.
Sự phân cực chia rẽ đã gây nhiều tổn hại cho ảnh hưởng toàn cầu của Hoa Kỳ. Và trong tương lai, khó mà có được những thử nghiệm này. Ảnh hưởng bị tổn hại đó là những điều mà Joseph Nye, học giả về chính sách đối ngoại, gọi là “quyền lực mềm,” tức là sức hấp dẫn của thể chế dân chủ và xã hội Mỹ đối với mọi người trên thế giới. Tính hấp dẫn đó đã giảm đi đáng kể. Điển hình là, khó mà có thể ca tụng thể chế dân chủ Mỹ hoạt động tốt đẹp trong những năm gần đây, hoặc quốc gia nào cũng nên bắt chước chủ nghĩa bộ lạc, rối loạn chính trị của Mỹ. Dấu hiệu trưởng thành của một nền dân chủ là khả năng thực hiện chuyển giao quyền lực hòa bình sau bầu cử, một thử nghiệm mà Hoa Kỳ đã thất bại một cách quái gở vào ngày 6 tháng 1.
Chính sách thất bại lớn nhất của chính quyền Joe Biden sau bảy tháng cầm quyền là việc không lập kế hoạch đầy đủ cho sự sụp đổ nhanh chóng của Afghanistan. Song, sự rút khỏi Afghanistan dù không thể hiện sự khôn ngoan, nhưng cuối cùng có thể biện minh là quyết định đúng. Joe Biden đã biện giải rút khỏi Afghanistan là cần thiết để tập trung đối mặt với những thách thức lớn hơn từ Đại Nga và Trung Quốc. Tôi hy vọng ông sẽ nghiêm túc về điều này. Barack Obama chưa bao giờ thành công trong việc “xoay trục” sang châu Á vì thời ông, nước Mỹ vẫn phải tập trung nỗ lực để chống nổi dậy ở Trung Đông. Chính quyền hiện tại cần tập trung, tái phối trí mọi nguồn lực và chính sách để nỗ lực đương đầu, ngăn chặn các đối thủ tầm vóc địa chính trị, và triệt để cộng tác với đồng minh.
Hoa Kỳ không có khả năng lấy lại vị thế bá chủ ngày trước, và cũng không nên khao khát vị thế đó. Những gì mà nước Mỹ có thể hy vọng là cộng tác chặt chẽ với các quốc gia cùng chí hướng, để duy trì một trật tự thế giới thân thiện với các thang giá trị dân chủ. Mục tiêu đó sẽ không phụ thuộc vào các hành động ngắn hạn của Hoa kỳ ở Kabul, mà từ phục hồi ý thức về bản sắc dân tộc và mục đích ở quê nhà./.