Hiếu Chân

Sài Gòn Nhỏ

Henry Kissinger là khách tham dự thường xuyên của Diễn đàn Kinh tế thế giới ở Davos, Thụy Sĩ. Ảnh chụp tại buổi khai mạc Diễn đàn Davos năm 2015. Ảnh Jeff J Mitchell/Getty Images

Tên tuổi của Henry Kissinger, cựu Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ, không xa lạ với người Việt Nam. Mới đây, theo truyền thông Hoa Kỳ, Kissinger ngầm thừa nhận rằng, khi đề nghị Ukaine nhượng lãnh thổ cho Nga để có hòa bình, ông ta đã đánh giá sai trầm trọng về Nga, cuộc chiến của nước này với Ukraine, cũng như phẩm chất của các nhà lãnh đạo và người dân Ukraine.

Kissinger với Nga và Ukraine

Sai lầm của Kissinger về Ukraine có nguồn gốc từ sự thỏa hiệp với kẻ thù, “thân thiện” với các chính thể độc tài, xuyên suốt trong học thuyết chính trị thực dụng của ông ta. 

 Henry Kissinger trong một lần gặp Vladimir Putin – Moscow ngày 29 Tháng Tư 2015 (ảnh: Sasha Mordovets/Getty Images)

Sau khi Vladimir Putin mô tả sự tan rã của Liên Xô và đế chế đàn áp của nó là “thảm họa địa chính trị lớn nhất của thế kỷ 20,” và cho rằng Liên Xô nên được tái thành lập, Kissinger đã tán thành và kêu gọi chính phủ Mỹ “thể hiện sự nhạy cảm hơn đối với những vấn đề phức tạp của Nga.”

Sau khi Putin xâm lược Georgia và bị thế giới phương Tây phản đối, Kissinger tuyên bố “cô lập Nga không phải là một chính sách lâu dài bền vững”. Khi Putin chiếm vùng Donbass ở miền đông Ukraine và bán đảo Crimea, Kissinger đã thúc giục Kyiv chấp nhận sự trung lập giữa Nga và phương Tây: “Nếu Ukraine muốn tồn tại và phát triển, nó không được là tiền đồn của bên nào chống lại bên kia”.

Ngày 23 tháng Năm 2022, hai tháng sau ngày Putin xua quân xâm lược Ukraine, Kissinger phát biểu tại Diễn đàn Kinh tế Davos: “Các cuộc đàm phán cần bắt đầu trong hai tháng tới trước khi nó tạo ra những biến động và căng thẳng không dễ vượt qua. Lý tưởng nhất, đường phân chia phải là sự trở lại hiện trạng trước đây. Theo đuổi cuộc chiến vượt quá thời điểm đó sẽ không phải vì tự do của Ukraine, mà là một cuộc chiến mới chống lại chính nước Nga”.

Cái gọi là “nguyên trạng trước đây” của Henry Kissinger là Ukraine phải chấp nhận để Nga chính thức sáp nhập bán đảo Crimea và kiểm soát không chính thức hai tỉnh cực Đông của Ukraine là Luhansk và Donetsk hợp thành vùng Donbass. Nói cách khác, Ukraine phải nhượng lãnh thổ cho Nga để được hòa bình.

Phát biểu của Henry Kissinger khiến nhiều chính khách Ukraine phẫn nộ. Nghị sĩ Ukraine Inna Sovsun nói rằng quan điểm của Henry Kissinger “thật sự đáng xấu hổ”, rằng “thật nhục nhã cho một cựu Ngoại trưởng Hoa Kỳ lại tin rằng việc nhượng một phần lãnh thổ có chủ quyền là cách để tìm kiếm hòa bình cho bất kỳ quốc gia nào”. 

Khi ấy, Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky đã chế giễu: “Có vẻ như lịch của ông Kissinger không phải là năm 2022 mà là năm 1938, và ông ấy nghĩ rằng mình đang nói chuyện với khán giả không phải ở Davos mà là ở Munich vào thời điểm đó. Nhân tiện, vào năm 1938, khi gia đình ông Kissinger chạy trốn Đức Quốc xã, không ai nghe thấy rằng cần phải làm hài lòng Đức Quốc xã thay vì chạy trốn hoặc chiến đấu với chúng.”

Phụ tá của Zelensky, Mykhailo Podolyak, thậm chí còn gay gắt hơn: “Thật không may, ông Kissinger đã không hiểu gì về bản chất của cuộc chiến này, cũng như tác động của nó đối với trật tự thế giới. Công thức mà cựu ngoại trưởng kêu gọi, nhưng ngại nói ra, rất đơn giản: xoa dịu kẻ xâm lược bằng cách hy sinh một phần lãnh thổ Ukraine.”

Vấp phải những lời chỉ trích mạnh mẽ, vào tháng Bảy 2022, Kissinger chống chế: “Tôi không nói rằng [Ukraine] nên từ bỏ các vùng lãnh thổ đó mà chỉ ngụ ý rằng chúng nên có một quy chế riêng biệt trong các cuộc đàm phán.” Ông ta nói miền đông Ukraine và Crimea nên được đối xử khác biệt “vì tầm quan trọng đặc biệt của chúng đối với nước Nga”.

Cách đây nửa tháng, vào ngày 17 tháng Giêng 2023, tại một hội nghị khác ở Davos, Kissinger bắt đầu rút lui một phần ý kiến. Ông ta nói rằng tư cách thành viên NATO của Ukraine, điều mà ông ta đã phản đối từ lâu, sẽ là một “kết quả thích hợp. … Ý tưởng về một Ukraine trung lập trong những điều kiện này không còn ý nghĩa nữa.”

Cuối cùng thì Kissinger, 99 tuổi, cũng hiểu ra rằng, Ukraine không thể nhượng đất cho Nga, không thể là nước trung lập mà phải chiến đấu đến cùng để bảo vệ độc lập tự do và toàn vẹn lãnh thổ. Trở thành thành viên NATO là yếu tố quyết định, bảo đảm hòa bình và độc lập của Ukraine trước âm mưu thôn tính của Nga, bây giờ và cả trong tương lại.

Kissinger bán đứng Việt Nam Cộng Hòa (VNCH)

 Phái đoàn Bắc Việt và phái đoàn Mỹ hội đàm tại Paris ngày 13/01/1973. Đoàn Mỹ bên phải bức ảnh, Kissinger mang kiếng gọng lớn ngồi ở giữa, bên cạnh là trợ lý Winston Lord. Ảnh White House via CNP/Getty Images

Nhưng trong cuộc đời chính trị dài dằng dặc của mình, Kissinger không chỉ sai lầm với Ukraine; ông ta đã sai lầm trầm trọng trong cuộc chiến tranh Việt Nam và trong vấn đề quan hệ Đài Loan – Trung Quốc hơn nửa thế kỷ trước. Do thời đó ông ta còn nắm quyền lực to lớn – Bộ trưởng Ngoại giao kiêm Cố vấn An ninh quốc gia của Tổng thống Richard Nixon – những sai lầm của Kissinger không chỉ là lời phát biểu trên diễn đàn hội nghị mà trở thành chính sách, gây hậu quả thảm khốc hơn rất nhiều mà đến nay ông ta chưa bao giờ tỏ ý ân hận hoặc hối tiếc.

Năm mươi năm trước, ở hội nghị Paris Kissinger đã bán đứng VNCH. Để đạt mục đích rút hết quân đội Hoa Kỳ ở miền Nam, Kissinger lén lút gặp phái đoàn Bắc Việt, bí mật ký kết với Lê Đức Thọ của cộng sản trong các cuộc mật đàm những nhượng bộ vô nguyên tắc và hết sức tai hại cho nền cộng hòa Việt Nam. Có thể tìm hiểu thêm về sự phản bội của Kissinger trong các bài phân tích của Sài Gòn Nhỏ theo các đường dẫn (link) ở bên dưới.

Điều lạ mà các tài liệu mới giải mật năm ngoái cho thấy là Kissinger đã giấu kín những thỏa thuận của ông ta với chính phủ Hoa Kỳ, với chủ của ông ta là Tổng thống Nixon và với Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu, dù ngay từ năm 1971 Kissinger đã tiết lộ những thông tin đó cho kẻ thù là Nga và Trung Quốc, qua đại sứ Liên Xô Anatoly Dobrynin và Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai. Tổng thống Nixon và Tổng thống Thiệu chỉ biết được nội dung “các cuộc đi đêm” của Kissinger khi đã quá muộn, ngay trước khi hiệp định Paris được ký kết ngày 27 tháng Giêng 1973. Hành vi đó đã đủ để coi Kissinger như một đặc vụ của cộng sản cài cắm vào hàng ngũ lãnh đạo chóp bu của chính phủ Mỹ hay chưa?

Với hiệp định Paris, Kissinger (cùng với Lê Đức Thọ) được trao giải Nobel Hòa bình năm 1973 -một sự kiện gây sốc cho nhiều người theo dõi thời cuộc lúc đó và đã có ít nhất hai trong năm ủy viên của Ủy ban đã từ chức để phản đối. Dù biết rõ sẽ không có một nền hòa bình nào cả, Kissinger vẫn xông ra nhận giải; để rồi gần hai năm sau, khi cộng sản Bắc Việt thôn tính hoàn toàn miền Nam, ông ta mang giải thưởng tới trả lại cho Ủy ban Nobel như một sự thừa nhận thất bại của mình. Có điều, không ai nhận lại giải đã trao.

 

Mục đích của Kissinger, hòa bình và danh dự đều không thực hiện được, hòa bình đã không đến và những người Mỹ cuối cùng tháo chạy khỏi Sài Gòn một cách nhục nhã. Miền Nam Việt Nam mất vào tay cộng sản và sự phản bội của Kissinger làm cho uy tín quốc tế của Mỹ bị sứt mẻ không hàn gắn được cho tới ngày nay.

Kissinger khấu đầu trước Trung Quốc

Nhưng sai lầm lớn nhất của Kissinger là khấu đầu trước Trung Quốc cộng sản, bắt đầu từ Thông cáo chung Thượng Hải năm 1972 – “tội tổ tông” trong quan hệ Hoa Kỳ-Trung Quốc.

 Kissinger (bên trái) đàm phán với Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai về Thông cáo chung Thượng Hải ở Bắc Kinh năm 1972. Ảnh Bettmann / GettyImages

Kissinger coi nhiệm vụ của mình là cống hiến cho Trung Quốc nhiều nhất có thể. Năm 1972, Kissinger cho rằng Hoa Kỳ phải nhượng bộ một phần vấn đề Đài Loan để khai thông quan hệ với Trung Quốc trong chuyến đi Bắc Kinh lịch sử của Tổng thống Nixon. 

Sự nhượng bộ đó được ông ta và Chu Ân Lai thỏa thuận thành một thông cáo, trong đó mỗi bên nêu quan điểm của mình đối với Đài Loan và các vấn đề khác. Bắc Kinh tuyên bố Đài Loan hoàn toàn thuộc về Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trong khi phía Hoa Kỳ không “thách thức” lập trường đó và chỉ “thừa nhận” (acknowledge) nó.

Sự lựa chọn thuật ngữ mơ hồ đó dẫn đến những cách giải thích trái ngược nhau và làm cho Trung Quốc và Hoa Kỳ đi theo những hướng hoàn toàn khác nhau. Kể từ đó, Bắc Kinh luôn khẳng định rằng Washington đồng ý với quan điểm của họ, mà họ gọi là “nguyên tắc một Trung Quốc”. Trong khi đó, Hoa Kỳ khẳng định rằng “thừa nhận”  (acknowledge) lập trường của Bắc Kinh không đồng nghĩa với việc “đồng ý” (agree) với lập trường đó, không đồng ý rằng Đài Loan là một phần của “một Trung Quốc” đó. Washington luôn khẳng định chắc chắn rằng tương lai của Đài Loan chỉ có thể được quyết định một cách hòa bình bởi chính phủ và người dân Đài Loan.

Bản thân Kissinger đã pha trộn các khái niệm này để tạo lợi thế cho Trung Quốc, dần dần ông ta coi lập trường của Bắc Kinh là của chính ông ta. Năm 2007, Kissinger cảnh báo Đài Loan hãy nghiêm túc trong việc thỏa thuận với Bắc Kinh về tương lai của họ vì “Trung Quốc sẽ không chờ đợi mãi”. Tập Cận Bình, chia sẻ sự thiếu kiên nhẫn của Kissinger, đã liên tục đe dọa sử dụng hành động bạo lực để thâu tóm Đài Loan. Các tướng lĩnh của quân đội Hoa Kỳ gần đây dự đoán Trung Quốc sẽ khởi binh đánh Đài Loan trong khoảng thời gian từ năm 2025 đến 2027.

Ngoài vấn đề Đài Loan, Kissinger còn thay mặt Bắc Kinh vận động các nhà ngoại giao và quan chức an ninh cao cấp Hoa Kỳ đánh bóng hình ảnh của đảng Cộng sản Trung Quốc. Khi Cộng sản Trung Quốc gây ra vụ thảm sát tại quảng trường Thiên An Môn tháng Sáu 1989, Kissinger đã viết trên tờ Washington Post: “Không chính phủ nào trên thế giới có thể dung thứ cho việc quảng trường chính của thủ đô bị chiếm đóng trong 8 tuần” và vì thế “một cuộc đàn áp là không thể tránh khỏi.” Đằng sau hậu trường, Kissinger liên tục thúc giục cựu Tổng thống George H.W. Bush phải im lặng, không ban hành các biện pháp trừng phạt, và chấm dứt cô lập Trung Quốc. 

Dưới thời chính quyền Donald Trump, Kissinger cũng đã thuyết phục Trump không gặp vị lãnh đạo tinh thần của Tây Tạng, Đức Đạt Lai Lạt Ma. 

 Henry Kissinger (ảnh: Adam Berry/Getty Images

Xem ra cuộc đời chính trị và ngoại giao dài dằng dặc của Henry Kissinger đầy những hành vi phản trắc, khích lệ các chế độ độc tài và xói mòn các nỗ lực dân chủ tự do trên khắp thế giới. Nhiều người khen ngợi Kissinger là người thông minh nhưng những quan điểm, phát biểu, hành động của ông ta lại cho thấy một kẻ thiển cận và tự cao tự đại. Học thuyết ngoại giao thực dụng của Kissinger tóm lại chỉ có một nội dung là sẵn sàng thỏa hiệp, bắt tay với độc tài để nhắm đạt những mối lợi trước mắt. Kissinger không hiểu được khát vọng tự do cháy bỏng của các dân tộc như người Ukraine, người Đài Loan, người Việt Nam và cả người Nga, người Trung Quốc; không hiểu được vì tự do mà người ta có thể hy sinh tất cả để đối đầu với cường quyền như thế nào.

Có người bình luận việc Kissinger thừa nhận sai lầm trong vấn đề Ukraine cho thấy một ông già đã gần đất xa trời vẫn có khả năng hối cải, thừa nhận sai lầm không bao giờ là muộn màng. Nhưng với một con người thâm hiểm và lật lọng như Kissinger, mọi sự hối cải hay thừa nhận sai lầm đều không đủ, đơn giản vì ông ta mắc quá nhiều sai lầm và gây ra những hậu quả không thể sửa chữa được.