SCSPI: Việt Nam bồi đắp hơn 10 km vuông diện tích ở Trường Sa
Việt Nam đã tăng tốc cơi nới các đảo nhỏ và bồi đắp các đảo chìm mà cộng lại diện tích mới có thêm tại quần đảo Trường Sa tăng ít nhất 10 km vuông.
Tổ chức SCSPI (South China Sea Probing Initiative) ở Bắc Kinh, Trung cộng, cho biết như vậy khi liệt kê ra 17 đảo và đảo chìm hay bãi đá ngầm mà Việt Nam đã gấp rút cơi nới và bồi đắp từ năm 2021 đến nay.

Tổ chức SCSPI ở Bắc Kinh đưa ra sơ đồ 11 trong 17 thực thể mà Việt Nam tăng tốc cơi nới, mở rộng tại quần đảo Trường Sa từ Tháng Mười, 2021 đến Tháng Năm, 2025. (Hình: SCSPI)
Bản báo cáo được phổ biến từ ngày 30 Tháng Sáu nhưng vừa mới cập nhật trở lại từ hai ngày nay sau khi tổ chức Sáng Kiến Minh Bạch Hàng Hải Á Châu (AMTI) ở Washington đưa ra bản phúc trình nói diện tích Việt Nam có thêm ở Trường Sa có thể qua mặt Trung cộng.
SCSPI nói rằng Việt Nam bắt đầu bồi đắp quy mô lớn tại khu vực Trường Sa từ Tháng Mười, 2021 tại 14 bãi đá ngầm và đảo nhỏ gồm Namyit Island (đảo Nam Yết), Sand Cay (đảo Sơn Ca), Tennent Reef (đá Tiên Nữ), Pearson Reef (đảo Phan Vinh), Barque Canada Reef (bãi Thuyền Chài), Alison Reef (đá Tốc Tan), Cornwallis South Reef (đá Núi Le), Ladd Reef (đảo Đá Lát), Discovery Great Reef (đá Lớn), Central Reef (có thể là Central London Reef – đảo Trường Sa Đông), South Reef (có thể là South London Reef – đá Nam), West Reef (hay có thể là West London Reef – đá Tây), Amboyna Cay (đảo An Bang) và Grierson Reef (đảo Sinh Tồn Đông).
Đồng thời hai đảo nhỏ và một đảo chìm sau đây cũng đã được cơi nới ở những mức độ khác nhau gồm Sin Cowe Island (đảo Sinh Tồn), Spratly Island (đảo Trường Sa lớn) và Lansdowne Reef (đá Len Đao). “Tính đến Tháng Năm, 2025, Việt Nam đã bồi đắp tất cả hơn 10 km vuông tại các thực thể đó,” SCSPI viết.
Trong bài viết kể trên, trong đợt này, SCSPI cũng biết Việt Nam đã cho công ty quốc doanh DACINCO và tập đoàn Xuân Thiện mua một số máy cỡ lớn của công ty Hòa Lan Royal IHC, để cắt, xay và hút san hô, cá, đá lòng biển cho nhu cầu nạo hút và bồi đắp tại các thực thể mà họ chiếm giữ tại quần đảo Trường Sa.
Trong phần chi tiết, SCSPI nói đảo Nam Yết diện tích nguyên thủy chỉ khoảng 0.08 km vuông nhưng kể từ năm 2021 đến Tháng Năm, 2025, đảo này đã phình ra về mặt Bắc và mặt Tây với diện tích mới tổng cộng lối 0.83 km vuông, tức lớn gấp 10 lần so với trước đây. Không những vậy, nơi đây còn có một bến cảng nước sâu rộng lớn.
Đảo Sơn Ca diện tích nguyên thủy chỉ khoảng 0.09 km vuông nhưng sau mấy năm được bồi đắp thêm, đến nay có diện tích khoảnh 0.43 km vuông tức đã phình ra gần gấp đôi. Nơi đây cũng đã được nạo vét để làm một bến cảng nước sâu rộng lớn cho các loại tàu cặp bến.
Đảo Phan Vinh nguyên thủy chỉ rộng khoảng 0.24 km2 nhưng sau các đợt cơi nới thì diện tích mới cho đến Tháng Năm, 2025 là khoảng 1.27 km vuông, tức cũng phình ra gấp năm lần.
Trước đây, Việt Nam có xây dựng hai lô cốt cho lính đồn trú để bảo vệ bãi đá ngầm Tiên Nữ. Qua mấy đợt bồi đắp và đến những tháng gần đây, nó đã trở thành đảo nhân tạo với diện tích khoảng 0.69 km vuông.
Nhưng đáng kể nhất phải nói đến các công trình mà Việt Nam đã bồi đắp và xây dựng tại bãi đá ngầm Thuyền Chài mà nay đã trở thành đảo nhân tạo rộng lớn. Trước kia, Việt Nam chỉ xây dựng ba tiền đồn để trấn giữ nhưng đến nay đã có diện tích đảo nhân tạo lên tới 2.8 km vuông. Không những vậy, trên đây, Việt Nam đã xây dựng phi đạo dài 3,200 mét cho các phi cơ quân sự cỡ lớn có thể sử dụng.
Bãi đá ngầm Đá Lớn, hồi trước Việt Nam cũng chỉ có ba tiền đồn nhỏ để trấn giữ, nhưng sau các đợt bồi đắp từ năm 2022 đến Tháng Năm, 2025 về hướng Tây Nam và Đông Nam, nơi đây đã trở thành đảo nhân tạo với diện tích khoảng 0.95 km vuông.

Bãi đá ngầm Thuyền Chài đã trở thành đảo nhân tạo Thuyền Chài rộng lớn gồm cả phi đạo dài 3,200 mét cho phi cơ quân sự lên xuống. Trong khi không ảnh chụp năm 2022 cho thấy vẫn chỉ là một bãi san hô chìm dưới mặt nước. (Hình: SCSPI)
Những gì được tổ chức SCSPI nêu ra được hiểu là Bắc Kinh theo dõi rất sát tất cả các hoạt động của Việt Nam trên toàn thể Biển Đông nói chung và tại quần đảo Trường Sa nói riêng. Thỉnh thoảng, người ta còn thấy họ cập nhật các video clip hoạt động bồi đắp của phía Việt Nam tại Trường Sa.
Đặc tính của SCSPI là họ chỉ công bố các hoạt động của các nước khác, đặc biệt là Mỹ, Việt Nam và Phi Luật Tân tại Biển Đông. Với Mỹ, họ làm báo cáo hằng tháng, nhiều khi là từng ngày, về các hoạt động của Hải Quân Mỹ, cả trên mặt nước cũng như trên không. Với Việt Nam, hoạt động trên biển gồm cả hoạt động đánh cá. Nhưng họ lờ tịt tất cả mọi hoạt động của Trung cộng ở khu vực.
Ngày 25 Tháng Tám mới đây, Bắc Kinh cho ông Quách Gia Khôn, phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao, đe nẹt: “Chúng tôi sẽ làm mọi điều cần thiết để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ, các quyền hàng hải và lợi ích của mình” khi thấy AMTI phổ biến phúc trình dự báo Việt Nam có thể qua mặt Trung cộng về diện tích bồi đắp ở Trường Sa.
Hiện chưa thấy có dấu hiệu gì bất bình thường xảy ra trong mối quan hệ Trung cộng với Việt Nam sau lời phát biểu trên của ông Quách Gia Khôn. Từ mấy năm nay, giới bình luận thời sự quốc tế cho rằng cả Hà Nội và Bắc Kinh đều muốn đối phó với các vấn đề phức tạp qua các kênh liên lạc ngầm, thay vì làm ầm ĩ cho xấu mặt cả hai.
Nguoi Viet News, Inc. (28.08.2025)
Trung cộng sẽ không ngừng “đùa với lửa” ở Biển Đông
- Reece Breaux, “China Won’t Stop Playing With Fire in the South China Sea,”The Diplomat, 19/08/2025
Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng
Vụ va chạm giữa một tàu Hải Cảnh Trung cộng và một tàu khác của Hải quân nước này là dấu hiệu cảnh báo đáng ngại.

Trung cộng lại một lần nữa đẩy tranh chấp Biển Đông với Phi Luật Tân đến bờ vực thẳm. Ngày 11/08 vừa qua, một tàu khu trục của Hải quân Quân Giải phóng Nhân dân Trung cộng (PLAN) đã suýt đâm vào một tàu của Lực lượng Tuần dương Phi Luật Tân (PCG), có khả năng gây thương tích hoặc tệ hơn, khiến Phi Luật Tân có thể viện dẫn Hiệp ước Phòng thủ Chung (MDT) năm 1951 với Mỹ.
Bắc Kinh thường cáo buộc Mỹ và các đồng minh đang “đùa với lửa.” Nhưng sự cố này nhấn mạnh cách tiếp cận hung hăng, thiếu chuyên nghiệp, và gây bất ổn của Trung cộng nhằm bảo vệ các yêu sách hàng hải bất hợp pháp của họ có thể nhanh chóng vượt khỏi tầm kiểm soát.
Trong những đoạn video do Tuần dương Phi Luật Tân đăng tải, tàu PLAN 164 đã đánh lái bất thường và với tốc độ cao về phía mạn phải tàu BRP Suluan, chỉ cách con tàu Phi Luật Tân vài mét. Cùng lúc đó, tàu Hải cảnh Trung cộng (CCG) 3104, cũng bám sát BRP Suluan, sau đó đâm mạnh mũi tàu vào mạn trái tàu PLAN 164, gây ra hậu quả mà người phát ngôn PCG Jay Tarriela mô tả là “thiệt hại đáng kể,” khiến chiếc CCG 3104 “không đủ điều kiện đi biển.” Ít nhất ba nhân viên của Hải cảnh Trung cộng đang đứng ở mũi tàu CCG 3104 vào thời điểm xảy ra va chạm; không rõ liệu họ có bị thương trong vụ việc hay không.
Sau vụ va chạm, Bộ Quốc phòng Trung cộng đổ lỗi cho Phi Luật Tân, nói rằng tàu Phi Luật Tân đã “nhiều lần thực hiện các động tác nguy hiểm, bao gồm cả các pha tấn công tốc độ cao, và rẽ gấp trước mũi tàu Trung cộng.” Tuy nhiên, video do PCG công bố cho thấy hai tàu Trung cộng mới nhiều lần cắt ngang đường đi của nhau khi truy đuổi tàu BGP Suluan.
Vụ việc này – xảy ra quanh Bãi cạn Scarborough thuộc Vùng Đặc quyền Kinh tế (EEZ) của Phi Luật Tân – cũng đáng chú ý vì sự tham gia ở tiền tuyến rất bất thường của Hải quân Trung cộng vào cái mà các chiến lược gia Quân Giải phóng Nhân dân gọi là “bảo vệ quyền hàng hải.” Tàu của Hải quân Trung cộng hiếm khi trực tiếp tham gia vào các hành động cưỡng chế vật lý, mà thường ẩn núp phía sau để hỗ trợ các tàu Hải cảnh ở tuyến đầu và ngăn tàu khác can thiệp. Tuy nhiên, trong vụ việc này, tàu PLAN 164 đã cùng với CCG 3104 truy đuổi tàu BRP Suluan một lúc trước khi cố gắng đâm vào con tàu Phi Luật Tân.
Trung cộng có thể đã triển khai PLAN 164 để trừng phạt các hành vi gần đây của Phi Luật Tân, bao gồm Chiến dịch Kadiwa của Manila nhằm hỗ trợ cộng đồng ngư dân Phi Luật Tân dưới áp lực của Trung cộng, và tuyên bố gần đây của Tổng thống Phi Luật Tân Ferdinand Marcos Jr., rằng “Phi Luật Tân không thể đứng ngoài” một cuộc xung đột liên quan đến Đài Loan. Trung cộng thường sẽ tăng cường hoặc rút quân để trừng phạt hoặc khen thưởng các quốc gia có tranh chấp lãnh thổ với Bắc Kinh.
Hành động cưỡng ép ngày 11/08 là một trong những hành động nguy hiểm nhất trong chiến dịch kéo dài hàng thập kỷ của Trung cộng nhằm kiểm soát các yêu sách chủ quyền rộng lớn ở Biển Đông bằng vũ lực. Dù sự cố suýt va chạm này có thể khiến Trung cộng tạm thời xuống thang, nhưng nó không thay đổi được những niềm tin ý thức hệ đã thúc đẩy sự quyết đoán trên biển của Bắc Kinh.
Để thực sự bình định Biển Đông, Phi Luật Tân, Mỹ, và các quốc gia có cùng chí hướng khác phải cùng nhau đảm bảo sức mạnh vượt trội so với Trung cộng và xây dựng các cấu trúc ảnh hưởng (gồm các ràng buộc và khuyến khích) nhằm định hình hành vi của Trung cộng theo hướng tránh xa sự hung hăng.
Trung cộng sẽ không tự thay đổi cách tiếp cận của mình
Trung cộng dưới thời Tập Cận Bình sẽ không lùi bước trong việc theo đuổi cái gọi là yêu sách lịch sử của nước này đối với khoảng 90% Biển Đông. Dù sự bất lợi về tương quan sức mạnh lâu nay đã kiềm chế tham vọng lãnh thổ của Trung cộng, nhưng Tập giờ đây nhận định rằng “một sự thay đổi đáng kể” trong “cán cân quyền lực quốc tế” đã tạo ra “những cơ hội chiến lược” mới để đạt được các mục tiêu của Trung cộng. Theo quan điểm của ông, Trung cộng không cần phải nhượng bộ chiến lược – kể cả trong lĩnh vực hàng hải – bởi những hạn chế hiện tại sẽ đơn giản biến mất khi Trung cộng trở nên hùng mạnh hơn.
Là một người vững tin vào ý thức hệ, Tập cho rằng ông và Đảng Cộng sản Trung cộng (ĐCSTQ) đang đi trên một quỹ đạo lịch sử không thể ngăn cản để đưa Trung cộng trở lại vị thế mà họ cho là xứng đáng ở trung tâm chính trị toàn cầu sau Bách niên quốc sỉ (Thế kỷ bị sỉ nhục). Thật vậy, phân tích của Tập rằng “phương Đông đang trỗi dậy và phương Tây đang suy tàn” đã thuyết phục ông rằng Trung cộng có thể tự do theo đuổi các mục tiêu của mình vì sự phản kháng đang ngày càng giảm sút.
Khuôn khổ ý thức hệ này tập trung vào việc đạt được “sự phục hưng vĩ đại của dân tộc Trung Hoa” vào năm 2049. Được mô tả lần đầu bởi nhà lãnh đạo khi đó là Giang Trạch Dân, phục hưng dân tộc bao gồm việc đưa Trung cộng trở thành một “nước xã hội chủ nghĩa hiện đại vĩ đại thịnh vượng, hùng mạnh, dân chủ, văn minh, hài hòa, và tươi đẹp.” Chiến lược của ĐCSTQ cho mục tiêu này là phát triển và áp dụng “sức mạnh quốc gia toàn diện” để xây dựng tầm ảnh hưởng toàn cầu, cũng như năng lực quân sự, sức mạnh kinh tế và công nghệ, sự gắn kết xã hội và quản trị, và tính bền vững môi trường. Chiến lược này định hình cách tiếp cận của Trung cộng đối với mọi vấn đề – bao gồm cả các yêu sách của nước này ở Biển Đông.
Các nhà lãnh đạo ĐCSTQ tin rằng việc kiểm soát Biển Đông sẽ mang lại những điều kiện chính trị, chiến lược, và kinh tế có lợi cho phục hưng dân tộc. Cụ thể, Trung cộng tin rằng việc kiểm soát này sẽ củng cố ảnh hưởng của Bắc Kinh đối với các quốc gia trong khu vực; mở rộng không gian chiến lược; nâng cao uy tín; thúc đẩy các chuẩn mực mong muốn; cho phép khai thác tài nguyên thiên nhiên trên lãnh thổ mà các quốc gia khác tuyên bố chủ quyền; và có lẽ quan trọng nhất là giành quyền kiểm soát các tuyến đường biển cần thiết cho việc triển khai sức mạnh và thương mại qua Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. Nếu không kiểm soát được Biển Đông, Trung cộng tin rằng mình sẽ bị Mỹ kiềm chế – một nỗi sợ được thể hiện rõ trong khái niệm “Lưỡng nan Malacca” của cựu lãnh đạo Hồ Cẩm Đào.
Tập và các lãnh đạo ĐCSTQ khác cũng gắn việc kiểm soát Biển Đông với việc đưa Trung cộng phát triển thành một “cường quốc hàng hải” hùng mạnh, một vị thế mà họ xem là then chốt trong quá trình phục hưng dân tộc. Thật vậy, hồi năm 2013, Tập từng tuyên bố rằng việc Trung cộng trở thành một cường quốc hàng hải “có ý nghĩa to lớn và sâu rộng… đối với… sự phục hưng vĩ đại của dân tộc Trung Hoa.” Theo Cầu Thị, tạp chí lý luận hàng đầu của ĐCSTQ, một cường quốc hàng hải có thể “phát huy sức mạnh tổng hợp lớn của mình để phát triển, sử dụng, bảo vệ, quản lý, và kiểm soát các đại dương.” Trung cộng không phải là một cường quốc như vậy vì họ vẫn chưa kiểm soát được tất cả các yêu sách trên biển của mình.
Vì lẽ đó, Trung cộng đang nhanh chóng hiện đại hóa lực lượng quân sự và bán quân sự để trang bị cho đất nước một lực lượng hải quân “hùng mạnh” và một hạm đội hành pháp trên biển “tiên tiến” có thể – và sẽ – bảo vệ các yêu sách lãnh thổ của nước này trước một “kẻ thù mạnh.” Liên quan đến điều này, vào năm 2012, ĐCSTQ đã thành lập “Tiểu tổ Lãnh đạo Trung ương về Bảo vệ Quyền hàng hải” để phối hợp các chính sách liên quan đến các yêu sách hàng hải, qua đó thể hiện sự tập trung lâu dài của chế độ vào vấn đề này.
Cuối cùng, quan niệm của Trung cộng về “lợi ích cốt lõi” cũng bao gồm các yêu sách hàng hải, cho thấy Bắc Kinh sẽ không từ bỏ chúng. Những lợi ích cốt lõi này bao gồm ba yếu tố: đảm bảo an ninh chính trị và quốc gia của Trung cộng, đảm bảo chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Trung cộng, và đảm bảo sự phát triển kinh tế và xã hội của Trung cộng. Sau khi Ủy viên Quốc vụ viện Đới Bỉnh Quốc lần đầu tiên định nghĩa “lợi ích cốt lõi” của Trung cộng vào năm 2009, các quan chức ĐCSTQ đã làm rõ với các đối tác Mỹ vào năm 2010 rằng các yêu sách của Trung cộng ở Biển Đông là một phần không thể thiếu đối với chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nước này. Việc nâng các yêu sách hàng hải lên vị thế “lợi ích cốt lõi” phản ánh quyết tâm của Trung cộng trong việc bảo vệ chúng.
Nói tóm lại, niềm tin ý thức hệ, biện pháp chính sách, và quan niệm về “lợi ích cốt lõi” của Trung cộng cho thấy các yêu sách của nước này ở Biển Đông là không thể đàm phán hay thỏa hiệp, và chiến lược hung hăng của nước này nhằm bảo vệ các yêu sách này sẽ không thay đổi.
Manila đã đóng băng lợi ích của Bắc Kinh
Bắc Kinh đã có thể mở rộng quyền kiểm soát Biển Đông trong thập niên 2010 chủ yếu là nhờ sự chấp thuận của các quốc gia ven biển, bao gồm cả chính phủ của cựu Tổng thống Phi Luật Tân Rodrigo Duterte (2016-2022). Duterte khi đó đã tạo khoảng cách giữa Manila và Washington và chấp nhận sự hiện diện hàng hải ngày càng tăng của Trung cộng để đổi lấy các khoản đầu tư lớn hơn và quyền tiếp cận thị trường của Trung cộng.
Duterte tin rằng việc công khai phản đối Trung cộng là vô ích, xét đến quân đội yếu kém và nhu cầu phát triển cấp thiết của Phi Luật Tân. Vì thế, ông đã tìm cách hòa giải với Bắc Kinh, bao gồm việc áp dụng lập trường mềm mỏng hơn trong các tranh chấp hàng hải, ký kết một “thỏa thuận không nuốt lời” nhằm hạn chế khả năng Manila tiếp tế cho lực lượng đồn trú trên Bãi Cỏ Mây, và cắt giảm hợp tác với Mỹ. Hơn nữa, ông còn hạ thấp tầm quan trọng của phán quyết của Tòa Trọng tài Quốc tế năm 2016, vốn có lợi cho Phi Luật Tân, gọi đó là “một tờ giấy lộn.” Việc Manila dung túng cho các hành vi xâm phạm bất hợp pháp của Bắc Kinh trong giai đoạn này đã củng cố một hiện trạng đáng lo ngại: lấn chiếm biển vì hòa bình và lợi ích kinh tế.
Tuy nhiên, Marcos, người kế nhiệm Duterte, đã đảo ngược cách tiếp cận này, trực tiếp đối đầu với Trung cộng về sự hiện diện bất hợp pháp và các hành vi gây hấn của nước này trên vùng biển Phi Luật Tân. Sau khi nhậm chức vào năm 2022, chính phủ của ông đã tìm cách phản đối Trung cộng trong các lĩnh vực ngoại giao, quân sự, pháp lý, và thông tin. Về mặt ngoại giao, Phi Luật Tân đã củng cố quan hệ song phương và đa phương với các quốc gia có cùng chí hướng như Nhật Bản và Australia, đồng thời tăng cường liên minh với Mỹ, bao gồm cả việc cho phép Washington tiếp cận nhiều căn cứ hơn theo Thỏa thuận Hợp tác Quốc phòng Tăng cường giữa hai nước. Về mặt quân sự, Manila đã cho phép Mỹ triển khai các hệ thống tên lửa có thể đe dọa tài sản của Trung cộng ở Biển Đông, phát triển cơ sở hạ tầng quân sự và giám sát trên quần đảo chính và các tiền đồn ở Trường Sa, đồng thời củng cố sự hiện diện xung quanh các điểm nóng trên biển đang tranh chấp với Trung cộng – bao gồm Bãi cạn Scarborough. Về mặt pháp lý, chính phủ đã phê chuẩn một đạo luật trong nước, trong đó nêu rõ vùng lãnh hải của Manila theo quy định của Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS). Và trong lĩnh vực thông tin, Phi Luật Tân đã tiến hành một chiến dịch thu thập tài liệu và phơi bày thông tin chống lại hành vi gây hấn của Trung cộng thông qua các nhà báo trên tàu PCG.
Cách tiếp cận này phần lớn đã ngăn cản Bắc Kinh mở rộng quyền kiểm soát vùng biển Phi Luật Tân, ngay cả khi Trung cộng vẫn liên tục hoạt động trên vùng biển này. Tất nhiên, Trung cộng có thể tận dụng lợi thế quân sự và bán quân sự áp đảo của mình so với Phi Luật Tân để tiêu diệt bất kỳ lực lượng Phi Luật Tân nào dám cản đường họ. Bắc Kinh từ chối lựa chọn này vì họ không muốn gánh chịu những hậu quả của việc leo thang đến vũ lực gây chết người – cụ thể là bị tổn thất danh tiếng nghiêm trọng và một cuộc đụng độ quân sự tiềm tàng với Mỹ.
Tuy nhiên, vụ việc ngày 11/08 không phải là lần đầu tiên hành động hung hăng của Trung cộng suýt gây thương vong cho binh sĩ Phi Luật Tân. Hồi tháng 06/2024, các thành viên của Hải cảnh Trung cộng đã lên các xuồng cao su thân cứng của Hải quân Phi Luật Tân khi đó đang cố gắng tiếp tế cho lực lượng đồn trú của Manila tại Bãi Cỏ Mây. Phía Trung cộng đã đe dọa các quân nhân Phi Luật Tân bằng vũ khí sắc nhọn và kéo một số tàu Phi Luật Tân ra khỏi bãi cạn một cách trái phép. Trong vụ việc này, vụ va chạm giữa hai con tàu đã nghiền nát bàn tay của một thủy thủ Phi Luật Tân, khiến ngón tay cái của anh ta bị đứt lìa.
Ngay sau đó, Trung cộng và Phi Luật Tân đã đạt được một “thỏa thuận tạm thời” không có chi tiết rõ ràng, và kể từ đó Bắc Kinh đã không còn tìm cách ngăn chặn bất kỳ nhiệm vụ tiếp tế nào tới Bãi Cỏ Mây. Nhiều khả năng Bắc Kinh đã đánh giá rằng việc leo thang thêm nữa có thể dẫn đến thương vong, và do đó làm phức tạp đáng kể vị thế chiến lược của Trung cộng.
Thật vậy, tại một diễn đàn vào tháng 04/2024, Marcos khẳng định bất kỳ hành động nào của Trung cộng khiến một quân nhân Phi Luật Tân thiệt mạng đều là cơ sở để viện dẫn Hiệp ước Phòng thủ Chung với Mỹ. “Chỉ cần thực sự có thương vong, và một quân nhân thiệt mạng… bất kể anh ấy được gọi bằng danh xưng nào… thì đó cũng là một cuộc tấn công nhằm vào Phi Luật Tân từ một thế lực nước ngoài.,” ông nói.
Ngay trước sự cố tháng 06/2024, Marcos đã nhắc lại lằn ranh đỏ này tại Đối thoại Shangri-La. Ông tuyên bố rằng nếu một quân nhân Phi Luật Tân bị giết trong một “hành động cố ý,” thì điều đó “rất, rất gần với những gì chúng tôi định nghĩa là một hành động chiến tranh,” đồng thời nói thêm “các đối tác hiệp ước của ông cũng áp dụng tiêu chuẩn tương tự.”
Về phía Washington, bản ghi cuộc gọi vào tháng 01/2025 giữa Ngoại trưởng Mỹ Marco Rubio và Ngoại trưởng Phi Luật Tân Enrique Manalo nêu rõ Rubio “nhấn mạnh cam kết chắc chắn của Mỹ đối với Phi Luật Tân theo Hiệp ước Phòng thủ Chung của chúng ta.” Tuyên bố này phản ánh ngôn ngữ của Chính quyền Biden, thể hiện cam kết lưỡng đảng của Washington đối với đồng minh của mình.
Rủi ro leo thang vẫn còn cao
Cả Bắc Kinh lẫn Manila đều khó có thể nhượng bộ các yêu sách chồng lấn của nhau trong tương lai. Trung cộng sẽ tiếp tục hành động hung hăng để khẳng định các yêu sách của mình, còn Phi Luật Tân sẽ tiếp tục bảo vệ Vùng Đặc quyền Kinh tế của mình. Những lập trường đối lập hoàn toàn này tạo ra nguy cơ leo thang không bền vững, có thể dẫn đến xung đột giữa các cường quốc.
Tòa Trọng tài đã bác bỏ các yêu sách của Trung cộng là bất hợp pháp theo UNCLOS. Tuy nhiên, việc viện dẫn các chuẩn mực và luật pháp quốc tế đã không đạt hiệu quả mong muốn. Vì Bắc Kinh đang phản ứng bằng sức mạnh, nên Washington và Manila phải thể hiện ý chí của mình bằng hành động cụ thể, khiến cái giá phải trả cho hành vi gây hấn của Trung cộng tăng lên.
Trước hết, Washington và Manila phải cùng nhau tổ chức các sáng kiến công nghiệp, quân sự, và kinh tế với các đối tác khác để phát triển năng lực sức mạnh cứng, vượt trội hơn Trung cộng về cả chất lượng lẫn số lượng. Việc mua bán và chuyển giao năng lực không liên tục, như kiểu thỏa thuận mà Phi Luật Tân đã ký với Ấn Độ và Pháp, là không đủ để đối phó với lực lượng hải quân và kho vũ khí tên lửa đáng gờm của Trung cộng.
Việc Mỹ đầu tư đáng kể vào năng lực hàng hải và quốc phòng của Phi Luật Tân trong bốn năm qua là một khởi đầu tốt, nhưng hai bên cần phải tăng cường các hợp tác đa phương cùng loại. Hợp tác đa phương Mỹ-Phi Luật Tân-Nhật Bản-Australia và hợp tác ba bên Mỹ-Phi Luật Tân-Nhật Bản nên tập trung nguồn lực vào các chương trình xây dựng năng lực hiện có để triển khai các năng lực đa phương – bao gồm các hệ thống nhận thức tình huống hàng hải và các nền tảng tự động có thể chấp nhận tổn thất – nhằm vô hiệu hóa lợi thế hàng hải của Trung cộng.
Thứ hai, Washington, Manila, và các đối tác nên áp dụng ưu thế sức mạnh này để xây dựng các cấu trúc ảnh hưởng nhằm định hình hành vi hàng hải của Trung cộng theo hướng tránh xa sự hung hăng. Các cấu trúc này bao gồm việc chủ động thay đổi môi trường chiến lược của Trung cộng thông qua các biện pháp như mở rộng hoạt động quân sự vĩnh viễn, luân chuyển hệ thống tên lửa, và các cuộc tập trận đa phương để làm phức tạp thêm các hoạt động của Bắc Kinh. Các đồng minh cũng nên xây dựng các thỏa thuận thương mại toàn diện và các giải pháp thay thế về vốn để làm suy yếu tiềm năng cưỡng chế kinh tế của Trung cộng, đồng thời tạo ra các thách thức ngoại giao và pháp lý nhằm làm tổn hại danh tiếng toàn cầu của Trung cộng.
Các đồng minh cũng nên áp dụng các biện pháp đối phó ngay lập tức và tự động để phản ứng trước hành vi gây hấn hoặc vi phạm chủ quyền của Trung cộng đối với Phi Luật Tân. Các biện pháp này nên bao gồm việc thực hiện các cuộc tập trận đa phương tại các khu vực nhạy cảm với thời gian thông báo trước ngắn, triển khai thêm các thiết bị quân sự như hệ thống tên lửa, trừng phạt và áp thuế lên các cá nhân và thực thể Trung cộng có liên quan, tiến hành các chiến dịch tấn công mạng nhắm vào các cá nhân và cơ quan chính phủ Trung cộng liên quan đến tranh chấp hàng hải, và theo đuổi các vụ kiện tại các tòa án và cơ quan liên quan. Sự kết hợp giữa thay đổi môi trường chiến lược của Trung cộng và trừng phạt từng hành vi vi phạm sẽ buộc Trung cộng phải giảm bớt, và theo thời gian, chấm dứt các hành vi gây hấn ở Biển Đông.
Tuy nhiên, cách tiếp cận này sẽ tốn kém, đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ, và tiềm ẩn rủi ro leo thang ngắn hạn. Trung cộng ban đầu có thể sẽ đáp trả bằng các biện pháp đối phó của riêng mình, do đó đòi hỏi cam kết đa phương bền vững và quản lý leo thang thận trọng. Để giảm thiểu rủi ro leo thang, các đồng minh nên duy trì các kênh ngoại giao để ngăn ngừa tính toán sai lầm và cung cấp cho Trung cộng các giải pháp thay thế để giữ thể diện, ngay cả khi vẫn cam kết với chiến lược của họ.
Lập trường cứng rắn của Trung cộng và Phi Luật Tân đã tạo thành một “thùng thuốc súng chiến lược” sẵn sàng nổ tung. Những khuyến nghị được đề xuất trên đây tuy tốn kém và đòi hỏi sự phối hợp đa phương chưa từng có, nhưng việc thực hiện chúng sẽ thuyết phục Trung cộng tin rằng họ không còn được hưởng “cơ hội chiến lược” ở Biển Đông, buộc Bắc Kinh phải lùi bước bằng cách tăng cái giá cho hành động gây hấn trên biển của họ.
Reece Breaux
Reece Breaux là nghiên cứu viên của Chương trình Nghiên cứu Quốc hội của Quỹ Bảo vệ Dân chủ (FDD).
Nghiencuuquocte (27.08.2025)
Trung cộng lên án Việt Nam bồi đắp ở quần đảo Trường Sa
Trung cộng cho phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao lên án Việt Nam bồi đắp, cơi nới các đảo nhỏ và đảo chìm ở quần đảo Trường Sa.
“Trung cộng cương quyết chống lại hoạt động xây dựng của nước liên quan tại các đảo và đảo chìm mà họ chiếm đóng bất hợp pháp,” ông Quách Gia Khôn (Guo Jiakun), phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao Trung cộng, trả lời như vậy hôm Thứ Hai, 25 Tháng Tám, trong cuộc họp báo. “Chúng tôi sẽ làm mọi điều cần thiết để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ, các quyền hàng hải và lợi ích của mình.”

Đảo nhân tạo Thuyền Chài, theo hình chụp mới nhất của vệ tinh Maxar ngày 1 Tháng Tám, có phi đạo dài 3,000m thấy rất rõ nét, cùng với nhiều doanh trại, cơ sở phòng thủ đã được xây cất. (Hình: AMTI/Maxar)
Câu trả lời của ông Quách Gia Khôn, gồm cả lời đe dọa khi được một nhà báo hỏi về các hoạt động xây dựng của Việt Nam tại quần đảo Trường Sa, được thuật lại theo một bản tường trình công bố trên mạng ngày 22 Tháng Tám của tổ chức Sáng Kiến Minh Bạch Hàng Hải Á Châu (Asia Maritime Transparency Initiative – AMTI) tại Washington DC, Hoa Kỳ.
Trong bản tường trình phổ biến trên trang web của họ, AMTI dựa trên các không ảnh do hãng không ảnh Maxar cung cấp, nói rằng Việt Nam đã và còn đang mở rộng các đảo nhỏ, bồi đắp biến các đảo chìm thành các đảo nhân tạo trên 21 thực thể mà nước này đã trấn giữ từ nhiều chục năm qua. Trước đây, những thực thể đó phần lớn chỉ có các tiền đồn hoặc lô cốt phòng thủ nhỏ bé.
AMTI cho thấy, nếu chỉ kể đến Tháng Ba năm nay, Việt Nam đã bồi đắp, cơi nới được một số diện tích mà nếu công lại, được chừng 70% diện tích mà Trung cộng đã bồi đắp một chục năm trước tại bảy đảo chìm mà họ cướp của Việt Nam năm 1988 và mấy năm sau đó.
Nhưng khi nhìn vào các không ảnh do Maxar chụp những ngày gần đây, cái gần nhất chụp ngày 1 Tháng Tám, diện tích các nơi mà Việt Nam đã bồi đắp, cơi nới thêm, cộng lại đã tương đương với diện tích Trung cộng bồi đắp. Nếu vẫn tiếp tục bồi đắp thêm tại các thực thể họ trấn giữ tại quần đảo Trường Sa, Việt Nam sẽ qua mặt Trung cộng.
Trong bản tin ngắn tường thuật lại cuộc họp báo của ông Quách Gia Khôn kể trên, tờ Hoàn Cầu Thời Báo, một phó bản của Nhân Dân Nhật Báo của Trung cộng, khi thuật lời ông Quách chống lại “các hoạt động bất hợp pháp” của nước khác ở quần đảo Trường Sa, chỉ thấy viện dẫn những thực thể đó mà Bắc Kinh tuyên bố chủ quyền chỉ là từ “thừa hưởng do ông cha truyền lại.”
Nói cách khác, Bắc Kinh dựa vào sức mạnh quân sự hùng mạnh hơn hẳn các nước nhỏ phía Nam để ngang ngược tuyên bố chủ quyền cũng như đánh cướp quần đảo Hoàng Sa năm 1974 và bảy đảo chìm ở quần đảo Trường Sa năm 1988. Tòa Trọng Tài Quốc Tế năm 2016 đã phán quyết tuyên bố chủ quyền chín đoạn nối lại giống hình “lưỡi bò” của Trung cộng tại Biển Đông là vô giá trị khi bị Phi Luật Tân kiện.
Bắc Kinh biết mình không có cơ sở pháp lý để tranh cãi nên đã không tham gia các phiên xử đó và cũng không công nhận phán quyết. Họ đành lu loa cãi chày cãi cối là cái “lưỡi bò” gồm cả các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là tài sản do ông cố ông tổ của họ để lại từ xưa.
Trung cộng không còn gì để bồi đắp thêm ở Trường Sa nên ít lâu nay muốn chiếm một số đảo chìm để xây dựng. Tuy nhiên, họ bị Phi Luật Tân chống lại quyết liệt vì nằm hoàn toàn trong vùng biển đặc quyền kinh tế của Manila, theo công ước quốc tế UNCLOS 1982. Các tin tức căng thẳng giữa Bắc Kinh và Manila vẫn nhiều trên mạng hàng ngày mà nếu không kềm chế, có thể dẫn đến chiến tranh.
Trong khi đó, từ bốn năm trở lại đây, Việt Nam đã tăng tốc, cơi nới cho rộng thêm một số đảo nhỏ và dùng các máy hút và cắt san hô lòng biển. Việt Nam dùng máy cỡ lớn mua của Hòa Lan, bồi đắp hơn một chục đảo chìm, hiện trở thành các đảo nhân tạo. Bắc Kinh thường lặng thinh, có lẽ nhắm đến những lợi ích khác lớn hơn, cho đến gần đây mới lên tiếng chống đối hai lần.

Đảo Phan Vinh ban đầu chỉ có một phần nhỏ ở góc Đông Bắc, nay đã được bồi đắp, cơi nới rộng hơn hàng chục lần về phía Tây Nam. Không những vậy, còn có bến cảng nước sâu rộng lớn. Không ảnh Maxar chụp ngày 1 Tháng Tám. (Hình: AMTI/Maxar)
Theo AMTI, chỉ kể từ đầu năm nay, Việt Nam đã nỗ lực mở rộng việc bồi đắp đảo ở Trường Sa tại tám thực thể mà trước đây họ chưa đụng tới. AMTI trưng dẫn không ảnh cho thấy các hình thể mới của năm trong tám thực thể đó là Đá Tốc Tan (Alison Reef), Đá Cô Lin (Collins Reef), Đá Đông (East Reef), Đá Len Đao (Landsdowne Reef), và Đá Núi Thị (Petley Reefs). Tại những đảo chìm này, trước đây Việt Nam chỉ xây dựng các lô cốt nhỏ để bảo vệ.
Bên cạnh những thực thể mới được bắt đầu bồi đắp từ đầu năm nay, Việt Nam lại tiếp tục mở rộng thêm tại ba thực thể vốn đã được bồi đắp thành các đảo nhân tạo cỡ trung bình. Đó là đảo An Bang (Amboyna Cay), đảo Sinh Tồn Đông (Grierson Reef hay còn gọi là Sin Cowe East Island), và Đá Tây (West Reef).
Theo AMTI, không ảnh cho thấy các cơ sở hạ tầng, gồm cả thùng (container) chứa súng đạn, đã bắt đầu xuất hiện, tại những thực thể Việt Nam tuyên bố chủ quyền và các hoạt động bồi đắp đã hoàn tất. Đó là tại đảo nhân tạo Thuyền Chài (Barque Canada Reef), Đá Lớn (Discovery Great Reef), Đá Lát (Ladd Reef), đảo Nam Yết (Namyit Island), đảo Phan Vinh (Pearson Reef), đảo Sơn Ca (Sand Cay), và Đá Tiên Nữ (Tennent Reef, còn được gọi là Pigeon Reef theo hải đồ Mỹ).
Với lời đe dọa mới nhất vào ngày Thứ Hai, 25 Tháng Tám, người ta chờ xem Việt Nam sẽ làm gì.
Nguoi Viet News, Inc. (26.08.2025)
Báo cáo Mỹ : Việt Nam sắp vượt Trung cộng về xây đảo nhân tạo ở Trường Sa
Theo báo cáo của một tổ chức nghiên cứu Hoa Kỳ công bố vào hôm qua 22/08/2025, Việt Nam đã tăng cường đáng kể việc bồi đắp, xây đảo nhân tạo tại những khu vực mà Hà Nội tuyên bố chủ quyền trong quần đảo Trường Sa ở Biển Đông, và có thể sẽ sánh ngang hoặc thậm chí vượt qua Trung cộng trong hoạt động “lấn biển” này.

Đảo Song Tử Tây (Southwest Cay) do Việt Nam kiểm soát tại quần đảo Trường Sa, tại khu vực có tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông. Ảnh chụp ngày 21/04/2017. AP – Francis Malasig
Theo báo cáo của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) có trụ sở tại Washington, được hãng tin Anh Reuters trích dẫn, hình ảnh vệ tinh gần đây cho thấy từ đầu năm nay, Việt Nam đã mở rộng hoạt động xây đảo tại tám địa điểm mới, trước đây chưa từng được khai thác trong các đợt bồi đắp bắt đầu từ năm 2021.
Báo cáo này cho biết hoạt động đào nạo và đổ đất tạo đảo đã được tiến hành tại các rạn san hô như Alison (Đá Ốc Tan), Collins (Đá Cô Lin), East (Đá Đông), Landsdowne (Đá Len Đao) và Petley (Đá Núi Thị). Ngoài ra, Hà Nội cũng tiến hành mở rộng tại ba địa điểm đã có đảo nhân tạo cỡ vừa, được xây dựng từ các đợt cải tạo trước, là Amboyna Cay (Đảo An Bang), Grierson Reef (Đảo Sinh Tồn Đông) và West Reef (Đá Tây).
Nhờ vào những hoạt động này, tất cả 21 đảo đá và các bãi nổi mà Việt Nam kiểm soát ở Trường Sa hiện nay đã được mở rộng và gia cố, trong khi 4 năm trước, phần lớn các đảo này chỉ có những công trình rải rác.
Tính đến tháng 03/2025, Việt Nam đã tạo ra khoảng 70% diện tích đảo, đá nhân tạo mà Trung cộng đã xây dựng tại Trường Sa. Việc bồi đắp và xây dựng tại tám địa điểm mới gần như chắc chắn sẽ giúp Hà Nội sánh ngang, thậm chí vượt qua quy mô xây dựng đảo của Bắc Kinh trong khu vực.
Các đại sứ quán của Trung cộng và Việt Nam tại Washington chưa đưa ra bình luận về báo cáo của CSIS.
Phi Luật Tân lên án Trung cộng tập trung lực lượng gần Bãi Cỏ Mây
Vẫn về tình hình Biển Đông, trong cuộc họp với đồng nhiệm Úc Richard Marles ngày hôm qua, bộ trưởng Quốc Phòng Phi Luật Tân nhấn mạnh đến việc lực lượng hải cảnh Trung cộng được máy bay trực thăng và drone hỗ trợ hiện diện gần tiền đồn quân sự của Phi Luật Tân là con tàu Sierra Madre, bị đánh đắm ở Bãi Cỏ Mây (Second Thomas hoặc Ayugin), sau khi được triển khai từ ngày 20/08. Một tàu Trung cộng đã tiến gần tàu Sierra Madre, buộc hai xuồng chở quân Phi Luật Tân phải ra ngăn tàu tiến gần hơn, theo tổng tư lệnh quân đội Phi Luật Tân, tướng Brawner. Phía Trung cộng chưa bình luận ngay về báo cáo của quân đội Phi Luật Tân.
RFI (23.08.2025)
Trung cộng im lặng theo dõi Việt Nam xây dựng hệ thống phòng thủ trên biển

Hải Quân Viêt Nam tuần tra trên các thực thể tuyên bố chủ quyền. (Hình minh họa: TTXVN)
Các nhà nghiên cứu ghi nhận trong tháng Chín, các số liệu và hình ảnh cho thấy Việt Nam đã mở rộng đáng kể hoạt động xây dựng đảo tại các khu vực mà nước này tuyên bố chủ quyền ở quần đảo Trường Sa thuộc Biển Đông đang tranh chấp. Điều đáng nói là tốc độ xây dựng này sẽ ngang bằng và thậm chí có thể vượt qua quy mô hoạt động tương tự của Trung cộng trên biển. Hồi 22 Tháng Tám, một tổ chức nghiên cứu của Hoa Kỳ cũng phát đi bản tin có nội dung xác nhận như vậy.
Báo cáo đó, được biết từ Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế của Washington cho thấy hình ảnh vệ tinh kể từ đầu năm nay, Việt Nam đã mở rộng hoạt động xây đảo lên tám thực thể trước đây chưa từng bị ảnh hưởng bởi đợt cải tạo đất bắt đầu vào năm 2021.
Báo cáo từ Sáng kiến minh bạch hàng hải châu Á của CSIS cho biết hình ảnh cho thấy Việt Nam đã tiến hành nạo vét và san lấp tại Đá Alison, Đá Collins, Đá East, Đá Landsdowne và Đá Petley.
Công trình này có nghĩa là tất cả 21 bãi đá và bãi cạn lúc thủy triều thấp do Việt Nam chiếm đóng tại quần đảo Trường Sa hiện đã được mở rộng để bao gồm đất nhân tạo, trong khi bốn năm trước, phần lớn chỉ có các công trình bê tông biệt lập.
Báo cáo cho biết hoạt động mở rộng mới cũng đã bắt đầu tại ba thực thể đã có các đảo nhân tạo cỡ trung được tạo ra trong các đợt nạo vét trước đó: Amboyna Cay, Grierson Reef và West Reef.
“Tính đến Tháng Ba năm 2025, Việt Nam đã tạo ra khoảng 70% diện tích đất nhân tạo ở quần đảo Trường Sa so với Trung cộng”, báo cáo cho biết. “Việc cải tạo tại tám thực thể mới này gần như đảm bảo rằng Việt Nam sẽ ngang bằng – và có thể vượt qua – quy mô xây dựng đảo của Bắc Kinh.”
Lâu nay, Trung cộng tuyên bố chủ quyền gần như toàn bộ Biển Đông, bất chấp các tuyên bố chủ quyền chồng lấn của Brunei, Malaysia, Phi Luật Tân và Việt Nam. Bắc Kinh đã tiến hành hoạt động xây dựng đảo quy mô lớn ở đó với mục đích quân sự, bất chấp sự phản đối của Hoa Kỳ và các đồng minh cũng như đối tác.
Báo cáo của CSIS cho biết các hình ảnh cho thấy cơ sở hạ tầng, bao gồm các thùng chứa đạn dược, bắt đầu xuất hiện trên các rạn san hô mà Việt Nam tuyên bố chủ quyền, nơi công việc nạo vét sắp hoàn tất, chẳng hạn như rạn san hô Barque Canada, rạn san hô Discovery Great, rạn san hô Ladd, đảo Namyit, rạn san hô Pearson, rạn san hô Sand Cay và rạn san hô Tennent.
Báo cáo cho biết vị trí của các công trình mới và kho đạn dược dường như ngăn cản khả năng xây dựng đường băng dài hoàn toàn trên một số thực thể dài hơn và cho biết đường băng tại Barque Canada có thể là đường băng duy nhất đang được xây dựng để nối với đường băng duy nhất hiện có của Việt Nam tại Đảo Trường Sa.
- Việt Nam mở rộng hoạt động xây dựng đảo ở quần đảo Trường Sa, tương đương với quy mô của Trung cộng theo báo cáo của CSIS, bằng cách nạo vét và san lấp trên nhiều rạn san hô.
- Cả 21 thực thể do Việt Nam chiếm đóng ở quần đảo Trường Sa hiện đều bao gồm đất nhân tạo, tăng đáng kể so với chỉ các lô cốt biệt lập cách đây bốn năm.
- Cơ sở hạ tầng như kho chứa đạn dược xuất hiện trên các rạn san hô, ngăn cản việc xây dựng toàn bộ đường băng, ngoại trừ có thể là ở rạn san hô Barque Canada; Trung cộng phản đối việc xây dựng đảo.
Việc mở rộng các thực thể trên biển của Việt Nam cũng được nhận định là hoàn toàn nhằm mục đích quân sự ở thế phòng thủ, nhằm chuẩn bị cho những căng thẳng – chủ yếu với Trung cộng – trên biển, trong tương lai.
Đại sứ quán Trung cộng và Việt Nam tại Washington không trả lời các yêu cầu bình luận về báo cáo của CSIS.
Vào Tháng Hai, Trung cộng cho biết họ đã gửi thư phản đối các hoạt động xây dựng của Việt Nam trên bãi đá Barque Canada, nói rằng đó là lãnh thổ của Trung cộng. Nhưng dường như Việt Nam không hồi đáp.
Năm 2016, Tòa án Trọng tài Thường trực tại The Hague đã phán quyết rằng các yêu sách chủ quyền của Trung cộng ở Biển Đông không được luật pháp quốc tế hỗ trợ, một quyết định mà Bắc Kinh bác bỏ.
Saigon Nhỏ (24.08.2025)