„Cũng trong âm mưu lừa đảo nhân dân không còn lâu trước Đại hội 13 vào đầu năm 2021, nay nhóm cầm đầu chế độ toàn trị, đứng đầu là Nguyễn Phú Trọng, đang tung ra một số đòn tuyên truyền rộng lớn trên toàn quốc và quốc tế về các lãnh vực cả trong ngoại giao, nội trị lẫn kinh tế. Đó là, trước áp lực ngày càng lớn và mối đe dọa chiếm trọn biển Đông của Tập Cận Bình, nên họ sẽ đổi trục ngoại giao quay đầu thần phục Trump, còn trong nội trị và kinh tế sẽ có “Đổi mới lần 2 với những cải cách thể chế, chính sách kinh tế mạnh mẽ”! Nhóm Trọng-Phúc đang âm mưu cho xài lại thủ đoạn lừa đảo “treo đầu dê, bán thịt chó” để đánh lừa nhân dân một lần nữa, chỉ nhằm kéo dài chế độ toàn trị để các đại quan và các nhóm lơi ích tự do tiếp tục nắm quyền và tham nhũng! „
TS.Âu Dương Thệ
– Vừa qua trong dịp 2.9 Nguyễn Xuân Phúc đã họp nội các và tuyên bố: “Chúng ta cần có “đổi mới 2” với những cải cách thể chế, chính sách kinh tế mạnh mẽ để tạo ra động lực phát triển mới.” (CP 4.9) Làm Thủ tướng (TT) mới từ ba năm qua, nhưng thành tích về thích nổ, thùng rỗng kêu to của ông đã vượt xa cả Nguyễn Tấn Dũng. Bất chấp sự thực, chỉ thích khoe khoang, tự dựng lên thành tích để được nổi tiếng khiến Nguyễn Xuân Phúc mới đây đã không ngượng ngùng dám ra lệnh cho sửa cả GDP (tổng sản lượng quốc nội) của VN, theo đó bình quân giai đoạn 2010-2017 tăng thêm 25,4%/năm so với số liệu đã từng công bố chính thức. Nghĩa là GDP năm 2017 đang từ 220 tỷ USD bỗng chốc tăng lên 275 tỷ USD. Từ đó lợi tức đầu người/năm cũng đã tăng thêm theo khoảng trên 25%/ năm! PGS Phạm Quý Thọ và một số chuyên viên đã lên tiếng báo động về những âm mưu lừa dối của Nguyễn Xuân Phúc và những hệ lụy tai hại về uy tín của bệnh chỉ ham thành tích, thích nổi và bất chấp sự thực của ông Phúc.
Cũng trong âm mưu lừa đảo nhân dân không còn lâu trước Đại hội 13 vào đầu năm 2021, nay nhóm cầm đầu chế độ toàn trị, đứng đầu là Nguyễn Phú Trọng, đang tung ra một số đòn tuyên truyền rộng lớn trên toàn quốc và quốc tế về các lãnh vực cả trong ngoại giao, nội trị lẫn kinh tế. Đó là, trước áp lực ngày càng lớn và mối đe dọa chiếm trọn biển Đông của Tập Cận Bình, nên họ sẽ đổi trục ngoại giao quay đầu thần phục Trump, còn trong nội trị và kinh tế sẽ có “Đổi mới lần 2 với những cải cách thể chế, chính sách kinh tế mạnh mẽ”! Nhóm Trọng-Phúc đang âm mưu cho xài lại thủ đoạn lừa đảo “treo đầu dê, bán thịt chó” để đánh lừa nhân dân một lần nữa, chỉ nhằm kéo dài chế độ toàn trị để các đại quan và các nhóm lơi ích tự do tiếp tục nắm quyền và tham nhũng!
Hơn 30 năm trước, tại Đại hội 6 (12.1986) số phận của chế độ toàn trị cực kỳ nguy hiểm như sợi chỉ treo ngàn cân. Phía Bắc bị Bắc kinh (BK) mở chiến tranh biên giới và giúp Pol Pot cầm chân hàng trăm ngàn bộ đội VN ở Campuchia. Cùng lúc bị Mỹ và phương Tây phong tỏa kinh tế và cô lập ngoại giao. Liên Xô, mụ đỡ và bầu sữa của CSVN, đang rơi vào giai đoạn tự tan rã. Trong nước nạn đói đe dọa khủng khiếp như thời 1945 cùng với nạn lạm phát phi mã lên tới 700-800%. Nhân dân vô cùng bất mãn, đảng viên thất vọng và mất tin tưởng. Vì thế nhóm cầm đầu toàn trị khi đó đã trương cờ và hô hoán “Đổi mới hay là chết”! Họ từng thề thốt, sẽ thay đổi toàn diện và triệt để cả trong kinh tế lẫn chính trị! Âm mưu này lại vừa được Nguyễn Xuân Phúc cho nổ ra vào 4.9.2019 qua chiêu bài “Đổi mới lần 2”!
Nhưng nay đã hơn 30 năm sau, chúng ta đã thấy rõ tận mắt “Đổi mới” như thế nào? Trên 30 năm qua nhân dân ta được sống ấm no, tự do; trí thức và nhân sĩ được mở miệng? Trên 30 năm qua đất nước phồn vinh, chủ quyền và lãnh thổ được tôn trọng? Thật là rõ ràng như ban ngày: Chế độ độc tài toàn trị với công an hà khắc càng tàn bạo hơn! Trí thức và nhân sĩ bị tước quyền phản biện, những người dân chủ bị đàn áp kể cả phụ nữ và thanh niên, hàng triệu công nhân bị bóc lột lao động, bao nhiêu triệu nông dân vẫn phải lam lũ theo cách con trâu đi trước cái cày theo sau như thế kỷ trước! Lợi tức đầu người của nhân dân ta đang thua xa so cả với nhiều nước trong khu vực! Trong khi đó lợi dụng sự nhu nhược và tâm lý tự ti của nhóm cầm đầu CSVN nên Bắc Kinh đang được đằng chân lân đằng đầu, hết cho HD 981 quần thảo trên lãnh hải VN suốt trên hai tháng năm 2014; hiện nay từ đầu tháng 7..2019 lại cho HD 8 tung hoành trên bãi Tư Chính tiến sâu hơn vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, chỉ còn cách bờ biển Quảng Ngãi của VN dưới 100km!
Trong khi đó các đại quan trong Bộ chính trị, Ban bí thư, Trung ương đảng, các bộ trưởng, các bí thư thành ủy và tỉnh ủy cùng với gia đình, thân tộc và vây cánh đang lập thành “tầng lớp thượng lưu mới”. Tầng lớp thượng lưu đỏ này đang làm giầu nhanh và bất chính do tham nhũng công quĩ, cướp đất của nhân dân, chiếm đất công thành đất ông, chiếm nhà công thành nhà ông, biến các doanh nghiệp nhà nước thành tư sản riêng và sân sau cho các đại gia đỏ và vây cánh! Tình hình thê thảm hiện nay của VN là kết quả thực tiễn của trên 30 năm được gọi là “Đổi mới” từ 1986 đến nay!
Vì thế chính lúc này mỗi người chúng ta cần phải hiểu cho rõ, nắm cho vững tại sao “Đổi mới” trên 30 năm qua đã hoàn toàn thất bại. Phải nhận rõ nguyên nhân thất bại của việc gọi là “Đổi mới”. Muốn vậy thì phải nắm vững những động cơ thầm kín, mục tiêu của “Đổi mới” của họ như thế nào? Từ đó cần vạch rõ, để thực hiện các âm mưu trên, họ đã dựng lên hay đẻ ra công thức “Đổi mới” như thế nào và thực hiện nó ra làm sao trên 3 thập niên vừa qua? Công thức này bao gồm những yếu tố chính nào? Vì đảng, vì tham vọng và quyền lợi ích kỷ của chính họ hay vì dân? Kết quả của “Đổi mới” trên 3 thập niên đã dẫn tới đất nước và nhân dân đi về đầu? Đã làm cho cán bộ, đảng viên tự diễn biến, tự chuyển hóa khủng khiếp như thế nào? Từ các vụ tham nhũng và phí phạm công quĩ vài chục ngàn USD (vụ Năm Cam, 2001), tăng lên hàng trăm ngàn USD (PMU 18, 2005), rồi bùng nổ các vụ tham nhũng và lãng phí công quĩ hàng trăm triệu, hàng tỉ USD (Vinashin 2010-11, PVN 2017-18)! Trong khi tham nhũng như rươi thì các nhóm lợi ích mọc lên như nấm, trên hết từ cái đầu là Bộ chính trị (BCT), các cán bộ trong Trung ương đảng (TUĐ) các bộ trưởng, các bí thư thành ủy, tỉnh ủy… Các nhóm lợi ích còn đang tung hoành ngang ngược ngay từ giai đoạn soạn thảo chính sách. Chúng toa rập với FDI (công ty nước ngoài), với các doanh nghiệp nhà nước (DNNN), với các đại gia đỏ. Nhà thơ Bùi Minh Quốc đã vạch mặt bọn “thẻ đỏ tim đen”. Nữ nghệ sĩ Nguyễn Thị Kim Chi vạch rõ bản chất độc tài của chế độ và tâm địa đen của nhóm cầm đầu: “Nhưng đáp lại thiện chí của chúng tôi là sự đàn áp ngày càng khốc liệt người bất đồng chính kiến; là ý đồ muốn biến nhân dân thành bầy cừu; thù ghét, khủng bố những người dấn thân tranh đấu vì những quyền cơ bản, chính đáng của con người, những giá trị phổ quát của nhân loại; hãm hại những trí thức ưu tú muốn khai trí nhân dân.”
Thủ lãnh hiện nay của chế độ độc tài là Nguyễn Phú Trọng đã bao lần mở miệng “Nhốt quyền lực vào trong lồng”! Nhưng chính ông lại là thủ lãnh đang lộng quyền và lạm quyền khủng khiếp nhất trong đảng từ trước tới nay. Dùng vây cánh và các thủ đoạn tồi tệ nhất, kể cả mua chuộc các nhóm lợi ích để đòi cho mình bằng được làm “trường hợp đặc biệt” để giữ lại ghế Tổng bí thư (TBT) tại Đại hội (ĐH) 12, mặc dù đã trên 72 tuổi khi đó – quá tuổi qui định. Từ cuối 2018 chiếm luôn cả ghế Chủ tịch nước (CTN), tức là thủ tiêu nguyên tắc tập trung dân chủ mà chính ông đã chống lại. Từ gần nửa năm nay bệnh nặng, suy nghĩ không thông, nói năng ấp úng, đi đứng không vững, nhưng vẫn lì lợm ngồi lì cả trên hai ghế Tổng-Chủ!
Với những người như Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Xuân Phúc, tư duy cực kỳ bảo thủ không vượt qua lũy tre làng, tính khí gian manh quỉ quyệt như bọn trương tuần của thế kỷ trước làm sao lại có thể “Đổi mới lần 2” được! Không chỉ nhìn vào dự án Nhân sự cấp cao của ĐH 13 do Nguyễn Phú Trọng làm Trưởng ban hoàn toàn không có gì mới cả, vẫn toàn là những phần tử tham nhũng quyền-tiền! Nhìn cả vào dự án Kinh tế-xã hội của ĐH 13 do Nguyễn Xuân Phúc làm Trưởng ban lại càng tệ hại hơn, chỉ vẫn như những cái áo cũ vừa rách nát, vừa hôi thối, chẳng ai muốn nhìn, mọi người phải bịt mũi tránh đi xa!
Quyết chí không để nhân dân ta bị lừa bịp lần nữa trong chiêu trò “Đổi mới lần 2”! Muốn vậy cần phải biết những người cầm đầu chế độ toàn trị trên 30 năm qua đã dùng những thủ đoạn và những quỉ quế nào để lừa dối nhân dân ta. Vấn đề vô cùng bức xúc của đất nước và nhân dân đã được người viết trình bày trong tập sách vừa được xuất bản trên toàn cầu dưới dạng sách in (hai tập) và ebook: Việt Nam, “Đổi mới”?! Hay: Treo đầu dê, bán thịt chó!, trên 700 trang.
Dưới đây là trích hai phần ngắn: “Mô hình “đổi mới” trên 30 năm qua”, trong Chương chín “Kết quả thực tiễn trên 30 năm “Đổi mới”, Tập II trang176-179. Và Chương kết: “I. Chế độ không thay đổi gì cả từ mục tiêu đến cơ chế.” “II. Sử dụng công thức đổi mới cực kỳ sai lầm làm cho ĐCS đang biến thể thành các nhóm lợi ích của một số người có quyền lực và tiền bạc, đảng viên thất vọng, quay lưng và đang tự diễn biến” (trang 238-256):
*
Chương chín – Kết quả thực tiễn trên 30 năm “Đổi mới”
I. Mô hình “đổi mới” trên 30 năm qua
Sau trên 30 năm “Đổi mới” từ 1986 trải qua 5 đời TBT Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh và Nguyễn Phú Trọng và xuyên qua 7 ĐH (từ ĐH 6 tới ĐH 12). Không biết bao nhiêu Nghị quyết đã được ban hành đề ra mục tiêu là, đưa VN tới năm 2020 trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nhưng trong cuộc họp nội các vào cuối năm 2014 sau gần 30 năm tiến hành “đổi mới”, Nguyễn Tấn Dũng lại than “sao lại cứ phải đứng sau 6 nước ASEAN? Chúng ta có đuổi kịp được ASEAN-6 không? Không có lý do gì chúng ta không cải thiện được để bằng ASEAN-6”? Trong thực tế nhiều mặt VN còn đi sau cả Campuchia và Lào.
Sau gần 30 năm đổi mới, lợi tức đầu người /năm của VN vào năm 2014 mới chỉ 2.052 USD, tức là VN mới chỉ bước vào những nước đang phát triển ở mức trung bình thấp. Trong khi đó Singapore lên tới 56.287 USD, Mã lai á là 10.830 USD, Thái lan là 5.561 USD và Nam dương là 3.515 USD. PGS,TS Phạm Quý Thọ thuộc Học viện Chính sách và phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư nhận xét, “chỉ tiêu này của nước ta tụt hậu so với Hàn quốc chừng 30 đến 35 năm, Malaysia khoảng 25 năm, Thái lan chừng 20 năm, Indonesia và Philippines chừng từ 5 đến 7 năm. Đến năm 2038 VN mới có thể bắt kịp năng suất lao động của Philippines và đến năm 2069 mới có thể bắt kịp Thái Lan.”
Nếu xét về mặt diện tích và dân số thì VN không phải là nước nhỏ. Với dân số gần 94 triệu (2017) VN đứng thứ 13 trên thế giới; với diện tích trên 331.114 km² VN đứng thứ 65. Nhưng về mặt kinh tế, xã hội (phát triển con người – HDI) hiện nay VN lại đứng thứ 116 trong tổng số gần 200 nước và ốc đảo trên giới. Nhiều người cầm đầu chế độ toàn trị thường đổ lỗi cho rằng, VN là một nước nhược tiểu, đất hẹp, dân không đông và tài nguyên không nhiều. Đây là những khẳng định cực kỳ sai lầm để trốn tránh trách nhiệm. Một số các nước trong khu vực như Nam Hàn diện tích chỉ trên 99.000km², 50,6 triệu người, nhưng lợi tức đầu người 2015 trên 27.000 USD đang là nước giầu mạnh, công nghiệp cao. Nhật có dân số gần gấp rưỡi VN, diện tích xấp xỉ với VN, tài nguyên thiên nhiên không nhiều, nhưng từ lâu đã trở thành cường quốc kinh tế, lợi tức đầu người năm 2015 là gần 37.000 USD. Về dân số và diện tích giữa VN và Đức không chênh lệch bao nhiêu; nhưng Đức, cũng như Nhật, từ đống tro tàn sau Thế chiến thứ 2 đã nhanh chóng vượt lên thành cường quốc kinh tế đứng thứ ba, thứ bốn trên thế giới.
Những câu hỏi trung tâm rất nghiêm túc cần được đặt ra là, tại sao nhiều nước ngay trong khu vực khi bước vào thời kỳ phát triển kinh tế thì cũng ở trình độ ngang ngửa như VN, nhưng nay đã bỏ xa VN để trở thành các nước công nghiệp hàng đầu, lợi tức cao gấp mấy chục lần VN? Người dân không chỉ sống sung túc mà còn được tôn trọng nhân phẩm. Phải chăng các mô hình chính trị, kinh tế, giáo dục và văn hóa là những nền tảng căn bản cho sự tiến lên hưng thịnh, hạnh phúc và văn minh, hay sự tụt hậu, nghèo đói và tha hóa đạo đức của một xã hội? VN đang áp dụng mô hình chính trị-kinh tế nào, có những đặc điểm gì?
Trong suốt trên 30 năm cải cách kinh tế chưa bao giờ VN theo mô hình kinh tế thị trường hiện đại như ở các nước Tây phương. Mô hình phát triển của VN là “Kinh tế thị trường Định hướng XHCN”. Mô hình này có một số đặc tính căn bản khác biệt hoàn toàn với các nền Kinh tế thị trường hiện đại ở các nước Tây phương trong các lãnh vực then chốt:
1. Chế độ độc đảng: ĐCS, cụ thể là BCT và BBT, trước sau vẫn chỉ huy toàn bộ và trực tiếp các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, tôn giáo và xã hội.
2. Công hữu toàn dân về đất đai (ĐCS là chủ nhân trong đất đai).
3. Doanh nghiệp nhà nước làm chủ đạo.
4. Kinh tế tư nhân nội địa tuy được công nhận, nhưng chỉ ngồi rìa, đứng bên lề trước thế lực mạnh của DNNN và sức ép của FDI.
Như thế cho thấy mô hình phát triển kinh tế của VN từ 1986 tới nay vẫn còn giữ căn bản mô hình kinh tế của chế độ toàn trị như ở Liên xô cũ, với một số biến thể, mặc dầu chế độ toàn trị ở Liên xô đã tan rã từ 1991. Trong đó ĐCSVN vẫn là người cầm trịch không chỉ trong chính trị, tư tưởng và văn hóa, mà cả trong kinh tế-xã hội. Mỗi ĐH vẫn đưa ra kế hoạch ngũ niên do ĐCS độc quyền từ các khâu hoạch định, đường lối tới các biện pháp… Nhưng dĩ nhiên trong giai đoạn và điều kiện CNXH trên toàn thế giới đang tan rã ngay từ cái nôi, nên những người cầm đầu CSVN bắt buộc phải dùng những từ ngữ và ngôn ngữ mới, để tạo những hi vọng mới, để tỏ ra họ là những người thức thời và nhờ thế mới có thể biện minh cho sự tiếp tục cầm quyền độc tôn!
Mô hình phát triển kinh tế này chứa đựng nhiều mâu thuẫn nội tại và đối lập với nhau. Nó được thực hiện trong thời kỳ Chủ nghĩa Xã hội (CNXH) theo ý thức hệ Marx-Lenin đã bị thực tế phủ nhận, thế giới CS tan rã. ĐCSVN cũng rơi vào thế sợi chỉ treo ngàn cân. Suốt trên 30 năm đổi mới từ 1986, đặc biệt từ giữa thập niên 90 khi thiết lập quan hệ với Hoa kỳ và thực hiện chính sách mở cửa với bên ngoài, mô hình phát triển kinh tế của chế độ toàn trị dựa trên một số cơ sở làm tiền đề đặt trọng tâm cho phát triển kinh tế. Đó là:
– Nhân công rẻ
– Khai thác nông sản
– Khai thác khoáng sản
– Ưu đãi cho tư bản nước ngoài vào đầu tư
– Tranh thủ nguồn vốn ODA trong xây dựng hạ tầng
– Đặt trọng tâm trong xuất cảng
Nhưng các cơ sở trên phải được đặt trong một khung kiên cố, nói thẳng ra là bị nhốt trong một cái lồng, đó là CNXH với tư tưởng Marx-Lenin làm chỉ đạo và trong cái lồng này, ĐCSVN chỉ huy độc quyền trực tiếp và toàn diện từ tổ chức, thực hiện, giám sát các hoạt động kinh tế-xã hội. ĐH 12 đã làm công việc tổng kết 30 năm thực hiện chính sách đổi mới (1986-2016) qua 5 đời TBT Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh và Nguyễn Phú Trọng…
CHƯƠNG KẾT
Khi đọc tới đây các Độc giả đã cùng người viết đi xuyên qua một chặng đường lịch sử hiện đại của đất nước chúng ta suốt trên 32 năm, từ Đại hội 6 (12.1986) tới 2018 – hai năm sau ĐH 12 (1.2016). Hiện đang rất nóng bỏng trong nhiều lãnh vực. Với chiều dài của lịch sử thì trên 30 năm chẳng là bao. Nhưng khoảng thời gian này lại đánh dấu nhiều sự kiện rất quan trọng đáng ghi nhớ cả với VN lẫn thế giới. Loài người bước vào thiên niên kỷ thứ ba. Liên xô và các nước CS Đông Âu sụp đổ. Chiến tranh lạnh chấm dứt sau gần nửa thế kỷ để lại những chiến tranh tàn khốc, hàng trăm triệu người từ Âu sang Á tới Phi châu đã bị hi sinh, những cuộc di cư tị nạn thảm thương của hàng trăm triệu dân trên thế giới; trong đó có những cuộc chiến tranh tàn khốc nhất ở VN và hàng triệu thuyền nhân!
Cùng lúc hai cuộc cách mạng mới đang bùng nổ, tầm vóc và ảnh hưởng nhanh chóng và sâu rộng chưa từng có trong lịch sử loài người. Đó là cuộc Cách mạng Toàn cầu hóa về kinh tế, tài chính và thương mại và cuộc Cách mạng Điện tử Internet. Hai cuộc Cách mạng này đang làm thay đổi kiến trúc và trật tự thế giới và thay đổi cả thái độ và tập quán của con người. Có lẽ nó sẽ có nhiều tác động mạnh hơn cả cuộc Cách mạng Công nghiệp hơn hai thế kỷ trước ở Âu châu. Hai cuộc Cách mạng này xẩy ra tương đối cùng một lúc và đang song hành ảnh hưởng trực tiếp, vũ bão rất sâu rộng tới mọi khu vực của hoàn cầu. Những tác động và ảnh hưởng của nó không chỉ trong kinh tế, tài chính, thương mại mà còn thay đổi cả tập quán, thói quen và thái độ của hàng tỉ người; nói chung cả văn hóa và văn minh của nhân loại. Nó đang tác động mạnh lên cả chính trị, an ninh và trật tự của thế giới, tạo lập những lực lượng và tương quan quốc tế mới, luật chơi mới, làm đảo lộn trật tự cũ; nhiều trật tự cũ từng là nền tảng của trong bang giao quốc tế đang bị thử thách. Từ đó cả nhiều giá trị cũ, nhiều nền văn hóa cũng đang đứng trước những thử thách gắt gao.
Hiện nay ĐCSVN đứng trước những nan giải nhất kể từ khi thành lập 1930; hoặc tan rã, bị nhân dân lật đổ và bị phỉ nhổ của lịch sử, hay nghiêm túc sớm trả lại quyền tự quyết cho nhân dân! Vì đảng và những người lãnh đạo của nó đã không hoàn thành những nhiệm vụ của lịch sử giao phó. Không những thế những người đứng đầu đảng trải qua trên 70 năm và xuyên qua mấy thế hệ độc quyền cai trị cực kỳ hà khắc và sai lầm còn phản bội những lời thề mang lại hạnh phúc, dân chủ, tự do cho nhân dân và bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước!
Những sai lầm liên tiếp và cực kỳ nguy hiểm của đảng này qua nhiều giai đoạn đã xô đẩy VN rơi vào hoàn cảnh cực kỳ nguy hiểm: Kinh tế kiệt quệ và lệ thuộc bên ngoài; những kẻ cầm quyền tham nhũng và tha hóa cùng cực, thẳng tay đàn áp nhân dân. Nội lực bị cạn kiệt và phân hóa nên đang bị tân đế quốc Trung quốc (TQ) sỏ mũi và lấn chiếm biển- đảo và đe dọa độc lập!
Tình hình cực kỳ sôi bỏng này đang gợi lên cho mỗi người chúng ta bao nhiêu câu hỏi, bao nhiêu vấn đề, nhiều giải đáp còn bỏ ngỏ. Nó gợi lên trí óc mỗi người những câu hỏi rất nhức nhối và thẳng thắn: Tại sao đất nước chúng ta suốt trên 70 năm -đặc biệt trên 30 năm qua- lại đã diễn ra rất tồi tệ và kinh hoàng đến như thế, mà lại không thể khác? Nó chất vấn lương tâm mỗi người, cho cả những đảng viên CS còn lương tri. Vì đâu nhân dân ta mọi thành phần đã đóng góp biết bao nhiêu sức lực, tiền bạc, thời gian; bao nhiêu triệu người đã bị hi sinh xuyên qua nhiều thế hệ, nhưng đất nước ta lại đến nông nỗi như ngày hôm nay, thua kém hầu hết các nước trong khu vực trong nhiều lãnh vực, đang bị đế quốc phương Bắc đe dọa nghiêm trọng và nhân dân đang bị tước đoạt các quyền tự do dân chủ căn bản nhất?
Xuyên qua 7 ĐH, trải qua 5 đời TBT, dưới chiêu bài “đổi mới” những người cầm đầu chế độ toàn trị đã thả cửa khai thác các tài nguyên của đất nước, huy động toàn bộ sức lực và của cải của nhân dân, đã thề thốt là đưa VN trở thành một nước công nghiệp hiện đại vào năm 2020, dân chủ và văn minh. Nhưng sau hơn 30 năm VN vẫn là nước tụt hậu và lạc hậu về nhiều mặt so với ngay cả nhiều nước trong khu vực. Mấy chục triệu nông dân bị bỏ rơi, hằng ngày vẫn phải vật lộn canh tác phần lớn theo lối lỗi thời, con trâu đi trước cái cày theo sau như các thế kỷ trước. Mấy triệu công nhân chỉ làm thuê theo lối gia công và bị bóc lột lao động trong các công ti FDI; trong khi ấy các chủ nhân đầu tư nước ngoài lại được ưu đãi đủ thứ và tự do chuyển hàng tỉ USD về mẫu quốc. Tư doanh VN bị bỏ rơi, bị bạc đãi; bị thòng cổ vào hai tròng: Các DNNN đè nén và các công ti FDI chèn ép. Trí thức và chuyên viên không được trọng dụng, không được công khai tranh biện; người dân không được quyền mở miệng, nhân quyền bị chà đạp thô bạo…!!! Như vậy công nghiệp hiện đại ở đâu? Dân chủ và văn minh ở đâu?
Trong khi ấy các tập đoàn và tổng công ty nhà nước đang được nuông chiều, làm ăn thua lỗ hàng cả triệu tỉ đồng. Bọn quan đỏ cấu kết công khai với các đại gia lập thành các nhóm lợi ích ngay từ giai đoạn soạn thảo chính sách để tham nhũng, xà xẻo công quĩ… Nay đất nước chúng ta còn đứng trước cảnh các hải đảo bị thôn tính, tài nguyên bị xâm lấn, ngày càng lệ thuộc kinh tế, tư tưởng, chính trị và ngoại giao vào TQ. Các tầng lớp nhân dân từ nông dân, công nhân, thanh niên, trí thức… và cả những đảng viên tiến bộ còn biết quí lòng tự trọng đứng lên tố cáo độc tài tham nhũng và luồn cúi BK đều bị các bộ máy Công an, Tuyên giáo đàn áp thô bạo, giam giữ, tra tấn và chụp mũ rất trắng trợn!
Trong khi ấy, cũng chỉ trong khoảng thời gian trên 30 năm nhiều nước trong khu vực cùng có điểm xuất phát như VN, nhưng nay đã trở thành những quốc gia có trình độ công nghiệp tiên tiến, người dân có đời sống rất cao, nhân phẩm được tôn trọng, mọi công dân có quyền hành xử các quyền dân chủ tự do. Đó là Nam Hàn và Đài loan…
Tập sách này đã tuân theo các chặng đường chính trong công tác nghiên cứu khoa học; đó là mổ xẻ, phân tích, giải thích, cắt nghĩa và đánh giá các sự kiện và tình hình, chính sách và kết quả mà chế độ toàn trị CSVN từ ĐH 6 (1986) tới ĐH 12 (2016) đã chủ trương và thực hiện. Xuyên qua 7 ĐH với tiêu đề “đối mới” được coi như khẩu hiệu trung tâm, sợi chỉ đỏ trải qua 5 đời TBT Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh và Nguyễn Phú Trọng. Nội dung của sách này xuyên qua 11 Chương, tập trung vào năm câu hỏi trung tâm và tìm giải đáp cho những câu hỏi này:
1.Tại sao phải đổi mới?
2. Đổi mới đã diễn ra như thế nào, có đổi mới thực không?
3. Hậu quả của những chủ trương và hành động này cho ĐCS như thế nào và đối với nhân dân và đất nước ra làm sao?
4. Viễn tượng cho ĐCS và đất nước như thế nào?
5. Làm sao để tương lai nằm trong tầm tay của chúng ta?
I. Chế độ không thay đổi gì cả từ mục tiêu đến cơ chế
Vào năm khởi đầu, tức 1986, chế độ toàn trị đứng bên bờ vực thẳm cả trong nước lẫn với quốc tế. Trong nước nạn đói trầm trọng nhất kể từ sau trận đói 1945, nạn lạm phát phi mã lên tới 700-800%. Trong khi ấy, đối với bên ngoài chế độ toàn trị phải đương đầu với hai cuộc chiến ở phía Tây nam, tại Campuchia và tại biên giới phía Bắc với “đồng chí” phương Bắc đã từng bao năm răng hở môi lạnh! Cùng lúc VN bị Mỹ và phương Tây cấm vận kinh tế, phong tỏa ngoại giao vì việc chiếm đóng Campuchia. Nguy hiểm nhất cho chế độ toàn trị ở VN khi ấy là các nước Đông Âu đang từ bỏ chế độ toàn trị chuyển sang Dân chủ đa nguyên (DCĐN) và Liên xô, cái nôi và từng là thành trì không có gì phá hủy được và đồng minh chính của CSVN, lại đang tự tan rã! Vì thế Nguyễn Văn Linh và một số người cầm đầu chế độ khi ấy đã phải nhìn nhận chế độ toàn trị đang rơi vào hoàn cảnh sợi chỉ treo ngàn cân, cho nên đã long trọng thề thốt phải “thay đổi hay là chết”!
Các cụm từ “đổi mới”, “dân làm chủ”, “đảng là đầy tớ”, “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra”… luôn luôn thoát ra từ cửa miệng những người cầm đầu toàn trị. Nhưng nay hơn ba thập niên sau, chế độ độc tài toàn trị vẫn còn đó với tất cả một hệ thống cai trị cực kỳ hà khắc hoàn toàn giống như cũ. Chế độ độc đảng phải được duy trì bằng mọi giá. Vì thế Điều 4 Hiến pháp qui định sự độc quyền tuyệt đối của ĐCS vẫn nằm đó. Chính CTN Nguyễn Minh Triết đã bộc lộ ý đồ đen tối và cũng là sự lo sợ của họ “Bỏ Điều 4 Hiến pháp là tự sát”!
Cũng chính vì thế, trong chính trị, kinh tế, pháp luật và văn hóa đạo đức đều phải giữ cái đuôi XHCN do ĐCS chỉ huy trực tiếp và toàn diện: Như với “Dân chủ XHCN” trong chính trị, ĐCS là đầu tầu, chỉ huy trực tiếp và toàn diện Chính phủ, Quốc hội, Quân đội, Công an và Mặt trận. Thực hiện mô hình “Kinh tế thị trường định hướng XHCN” (KTTT ĐHXHCN), trong thực tế là ĐCS nắm toàn bộ các huyết mạch kinh tế, xuyên qua các tập đoàn và tổng công ti nhà nước, chi phối toàn bộ nền kinh tế. “Pháp chế XHCN” vẫn là nền tảng trong quan hệ như thời phong kiến giữa nhà cầm quyền và nhân dân; với luật pháp, tòa án và thẩm phán xử theo cách nào cũng được, theo tiêu chuẩn tắm từ vai trở xuống và bắt con tép thả con cá sộp. Đất đai trước sau vẫn thuộc quyền sở hữu của nhà nước XHCN, ở đây là độc quyền của đảng; trong thực tế nằm trong tay của những cán bộ có quyền lực và cực kỳ tham lam ở trung ương và địa phương, dựng lên các dự án đủ thứ, đủ loại để lợi dụng chia chác làm sở hữu riêng và buôn bán ruộng đất và địa ốc. Trong văn hóa giáo dục, thực hiện “Đạo đức cách mạng XHCN”, nên từ Tổ quốc là trên hết, từng là giá trị cao quí chung của mọi người Việt xuyên qua thời gian mấy ngàn năm lịch sử của dân tộc, nay đã biến chứng đổi dạng thành đảng trước nước sau, “Mừng đảng, mừng lãnh tụ, mừng xuân!” Và nay cả xã hội đang bị đồng tiền và quyền lực bất chính của các nhóm lợi ích chỉ huy theo tiêu chí “Nhất hậu duệ, nhì quan hệ, ba tiền tệ, bét trí tuệ”!
Chế độ toàn trị vẫn kiểm soát toàn bộ và cực kỳ nghiêm khắc đời sống tư tưởng, văn hóa và tôn giáo. Chủ nghĩa Marx-Lenin đã bị ném vào thùng rác ở cựu Liên xô và Đông Âu, nhưng vẫn chiếm độc quyền ở VN. Nhiều tư tưởng và văn minh tiến bộ trên thế giới vẫn bị chụp mũ, kết án là phản động, đế quốc. Trong khi ấy lại cúi đầu trước TQ, một đế quốc đang ngóc đầu lên lại, phải tung hô “16 chữ vàng” và “4 tốt”; mặc dầu BK từ năm này sang năm khác lấn chiếm đảo, cướp tài nguyên và xây pháo đài trên biển Đông, giết hại ngư dân và gia tăng kiểm soát thương mại và kinh tế của VN. Từ sau Hội nghị Thành đô 1990 tại khách sạn Kim ngưu, BK ép VN trở thành con trâu vàng, bắt kéo cày trả nợ!
Nói tóm lại, suốt trên 30 năm gọi là “đổi mới” nhưng mọi chuyện vẫn cũ rích, đúng theo lời than trách và nguyền rủa của dân gian là “nguyễn như vân” và “vũ như cẫn”! Oái oăm và cay đắng thay cho ngay cả những đảng viên cả tin, vẫn tin vào những lời nói đường mật của những người cầm đầu toàn trị là, “đổi mới để cứu Đảng” theo sách lược “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” của người sáng lập chế độ. Nhưng thực sự hiện nay, ngày càng nhiều đảng viên đã vỡ mộng và thất vọng cay đắng, vì thấy những người này -từ “Tứ trụ” sang “Tam trụ” tới các Ủy viên BCT và BBT- chỉ mượn danh nghĩa đảng, nhưng lại chỉ tính toán cực kỳ ích kỷ, làm sao giúp họ để giữ quyền tiền nhiều hơn, lâu hơn; chỉ lo thu vén cho bản thân, gia đình, giòng tộc và vây cánh. Lòng tham quyền lực-tiền bạc và thái độ ích kỷ đã làm họ biến chất, tự chuyển biến xấu và cực kỳ mù quáng; bất chấp những hậu quả rất tai hại và nặng nề mà nhân dân phải gánh vác, đất nước phải đối mặt trước nguy nan, ngay cả đảng cũng đang phân hóa rất trầm trọng, đứng trước nguy cơ tan rã!
Mượn danh nghĩa đổi mới để cứu đảng với những chính sách cực kỳ sai lầm, thiển cận, bóc ngắn cắn dài trong mọi lãnh vực -từ chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục tới ngoại giao quốc phòng- nên sau hơn 30 năm họ đã biến Đảng trở thành một công cụ phục vụ những tham vọng và quyền lợi ích kỷ của vài cá nhân và phe nhóm. Vì thế không chỉ Đảng đã bị biến dạng, biến chất rất sâu sắc theo chiều hướng thoái hóa, chia rẽ rất trầm trọng; mà cả bộ mặt xã hội VN hiện nay đang bộc lộ nhiều điểm không bình thường, rất tồi tệ. Những điểm nổi bật đập vào mắt và làm kinh hoàng là tệ trạng tham nhũng tiền bạc và quyền lực đã ngự trị từ cấp cao nhất là BCT tới cấp thấp nhất là cán bộ và công an ở các phường, xã, thôn! Các nhóm lợi ích đang thực sự thay thế Đảng, biến Đảng chỉ còn là cái hình nộm. Các nhóm lợi ích đang biến chính phủ, quốc hội, quân đội, công an, tòa án thành những công cụ để kinh tài, kinh quyền vô cùng bất chính. Các nhóm lợi ích đang bẻ cong pháp luật, bẻ gẫy kỷ cương xã hội và giẫm nát các giá trị truyền thống tốt của dân tộc ta!
Những người cầm đầu chế độ toàn trị giữ thái độ “kiêu ngạo CS”, đang lợi dụng quyền lực như người cầm súng trong tay, đưa ra những chủ trương cực kỳ sai lầm, tuyên bố phản khoa học và hoàn toàn trái với thực tiễn, rồi bắt mọi người phải nghe theo những lý luận ngụy biện và giải thích tùy tiện của họ. Chính Nguyễn Phú Trọng người cầm trịch hiện nay đã tự dựng đứng rất hàm hồ tuyên bố hoàn toàn trái với sự thực là “đi lên CNXH là khát vọng của nhân dân ta”! Và “chỉ có CNXH và chủ nghĩa Cộng sản mới có thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập cho dân tộc, mới có thể đem lại cuộc sống tự do, ấm no và hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi người, cho các dân tộc.” Nhưng chính ông đã tự phủ nhận lời khẳng định của chính mình khi xác nhận là, không biết liệu trong thế kỷ này có tiến tới CNXH được không! Cũng vẫn giọng điệu của kẻ cầm súng trong tay, ông Trọng còn cao ngạo và bất chấp sự thực trước sự tụt hậu của đất nước và sự thối nát của chế độ: “Từ thực tế thì thấy là, chúng tôi thực hiện một đảng vẫn là hiệu quả nhất “ và còn hống hách tước quyền tự quyết của nhân dân VN: “Chúng tôi nói là, ở VN chưa thấy sự cần thiết khách quan cần phải có chế độ đa đảng”!!!
Cả Đỗ Mười, người tiền nhiệm của Nguyễn Phú Trọng, từng nắm quyền trực tiếp nhiều năm và là “Thái thượng hoàng” dưới thời Lê Khả Phiêu và Nông Đức Mạnh cũng đã đưa ra những chủ trương giáo điều rất độc đoán, nên đã gây ra nhiều sai lầm nghiêm trọng. Tại ĐH 7 với thái độ cha chú Đỗ Mười đã nhận định rất mù quáng và ăn nói rất lỗ mãng, thiếu văn hóa: “Trong điều kiện nước ta hiện nay không có sự cần thiết khách quan để lập nên cơ chế chính trị đa nguyên, đa đảng đối lập. Thừa nhận đa đảng đối lập có nghĩa là tạo điều kiện cho sự ngóc đầu dậy ngay tức khắc và một cách hợp pháp các lực lượng phản động, phục thù trong nước và từ nước ngoài trở về hoạt động chống tổ quốc, chống nhân dân, chống chế độ.” Câu nói này đã trở thành mệnh lệnh cho những người kế nhiệm Đỗ Mười, từ Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh tới Nguyễn Phú Trọng hiện nay!
Trong suốt trên 30 năm qua, miệng những người cầm đầu luôn luôn nói tới “đổi mới toàn bộ” cả kinh tế lẫn chính trị. Nhưng trong thực tế họ chỉ làm trò giật gấu vá vai, chụp giật chắp vá đầy mâu thuẫn và sai lầm trong kinh tế; đồng thời dùng mọi thủ đoạn để ngăn cản những thay đổi cực kỳ cần thiết và cấp bách trong chính trị. Thậm chí họ còn ma lanh lợi dụng uy quyền để vất vào thùng rác hay làm vô hiệu hóa ngay các Nghị quyết của các ĐH và Hội nghị Trung ương (HNTU) đã được thông qua, mặc dầu vẫn đòi các đảng viên phải tôn trọng Điều lệ đảng và thực thi nghiêm chỉnh các Nghị quyết của đảng! Như từ khi làm TBT từ năm 2011 Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần có những hành động ngang ngược như vậy.
Tại Đại hội 11 (1.2011) hai phương án đã được đưa ra thảo luận và biểu quyết về sở hữu đất đai. Phương án 1 của phe Nguyễn Phú Trọng đưa ra “Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu” và Phương án 2 của các đảng viên tiến bộ”. “Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại với quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp”. Khi đó Phương án 1 chỉ được 472 phiếu đồng ý (34,3%), nhưng Phương án 2 lại được đa số áp đảo với 895 phiếu đồng ý (65,04%). Như vậy chủ trương “chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất” đã bị Đại hội 11 bác bỏ!”
Nhưng tại cuộc họp báo đầu tiên với tư cách tân TBT ngày 19.11.11, Nguyễn Phú Trọng tuy nói là “chấp hành” quyết định của ĐH, nhưng liền đó lại phủ nhận ngay và dùng lý luận rất ngụy biện để bóp méo, để áp đặt chuyển về cơ chế cũ: “ĐH biểu quyết như thế nào thì chúng ta phải chấp hành, theo ý chí của toàn đảng, nhưng không làm ảnh hưởng đến chính sách nhất quán của VN là xây dựng cơ sở hạ tầng cho đất nước, duy trì kinh tế thị trường theo định hướng XHCN.”
Nhưng ai cũng biết, đi theo định hướng XHCN có nghĩa là, vẫn duy trì “chế độ công hữu” trong đất đai; mặc dù ông Trọng biết thừa rằng, như thế trái với quyết định của ĐH 11. Vì vậy đến nay nhân dân vẫn bị tước đoạt quyền tư hữu về đất đai, còn các quan đỏ tự do chia chác, buôn bán đất đai để làm giầu!
Do tư duy cực đoan bảo thủ và thái độ cực kỳ độc tài, nên tại HNTU 10 Khóa 11 đầu tháng 1.2015 lần thứ 2 Nguyễn Phú Trọng lại công khai chống lại quyết định rất quan trọng của TUĐ. Thật vậy, Thông báo HNTU 10 đã minh thị xác nhận: “Ban chấp hành TUĐ xác định, trong nhiệm kỳ ĐH XII, cần đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới”. Và còn quyết định rõ những nhiệm vụ và giải pháp trong năm tới, đặc biệt nhiệm vụ thứ 12: “Quán triệt và xử lý tốt các quan hệ lớn: giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị”.
Như vậy HNTU 10 (Khóa 11) đã đi đến một đồng thuận chung rất rõ ràng là, lần đầu tiên công khai ghi rõ một chủ trương cực kỳ quan trọng, đó là từ ĐH 12 trở đi phải thực hiện nghiêm túc và triệt để cả “đổi mới chính trị”. Điều này phải hiểu là từ ĐH 12 trở đi phải thay đổi hệ thống chính trị để chuyển từ chế độ độc đảng sang dân chủ đa nguyên. Không ai có thể hiểu cách khác được! Nhưng Thông báo HNTU10 chưa ráo mực thì trong diễn văn bế mạc Nguyễn Phú Trọng đã ngang ngược vội vàng phủ nhận và giải thích hoàn toàn trái ngược quyết định tối quan trọng của TUĐ: ”Phải nắm vững và khẳng định: Đổi mới chính trị không phải là làm thay đổi chế độ chính trị, thay đổi bản chất của Đảng ta, Nhà nước ta.”
Đó vẫn là chủ trương “Đổi mới nhưng không đổi màu”! Như vậy trước sau ông Trọng vẫn cực kỳ ngoan cố, bằng mọi giá giữ độc quyền cho phe nhóm của ông, sẵn sàng chống lại quyết định chung. Thái độ độc đoán gia trưởng của những người cầm đầu chế độ toàn trị trước đây và hiện nay của Nguyễn Phú Trọng đã bị ngay cả Bùi Quang Vinh, khi ấy còn là Ủy viên Trung ương và bộ trưởng Kế hoạch và đầu tư, tố cáo công khai ngay trước ĐH 12 là, 5 năm qua “Đổi mới hệ thống chính trị thì hầu như chưa làm! ”
Hành động mới đây nhất Nguyễn Phú Trọng đã tự để lộ bản chất tham quyền vô độ khi ông lợi dụng cơ hội Trần Đại quang mất để thâu tóm luôn chức CTN vào tay mình vào đầu tháng 10.2018. Trần Đại Quang bệnh nặng từ lâu và vừa mới mất ít ngày trước. Ông Trọng đã lợi dụng cơ hội này để bắt HNTU 8 (2-6.10.18) vào ngày 3.10 với 100% cử làm CTN. Mặc dầu trong Hội nghị này chính ông đòi phải thảo luận về “Quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Uỷ viên BCT”. Nhưng ý đồ nắm ghế CTN đã được phe Nguyễn Phú Trọng chuẩn bị từ lâu. Ngay buổi sáng ngày 2.10 trước giờ khai mạc của HNTU 8 và một ngày trước khi HNTU làm công việc thông qua, Phó Tổng biên tập Tạp chí Cộng sản (TCCS) Nhị Lê, là cái loa của ông Trọng, đã hô lớn ủng hộ giải pháp “nhất thể hóa” hai chức TBT và CTN vào tay Nguyễn Phú Trọng là “rất chín muồi! Nếu không nói là, đã chín quá mõm mòm!” Để biện minh cho việc làm này Nhị Lê gọi đó là để chống việc duy trì hệ thống tổ chức “tình trạng song trùng” hao tốn ngân sách Nhà nước. Nghĩa là Văn phòng TUĐ và Văn phòng Chủ tịch nước sẽ gộp làm một. Nhưng sau khi Nguyễn Phú Trọng được 100% Ủy viên Trung ương tham dự cử làm CTN thì ngày hôm sau Lê Quang Vĩnh, Phó chánh Văn phòng TƯ Đảng đã nói ngược lại: “Vấn đề sáp nhập 2 Văn phòng không được đặt ra, Văn phòng Chủ tịch nước và Văn phòng TƯ Đảng vẫn riêng biệt.” Qua đó họ đã tự làm trò hề dấu đầu hở đuôi!
Trong dịp này ông Trọng còn đóng kịch theo kiểu “em chả, em chả” phân bua là, “không phải nhất thể hoá, đây là tình huống”. Nguyễn Phú Trọng lại phải đóng kịch như vậy, vì hành động chớp thời cơ để thâu tóm luôn chức CTN vào tay mình nó đi ngược lại hoàn toàn với những tuyên bố từ trước tới nay của chính ông. Tháng 5.2015 ông Trọng đã từng chống lại việc ghép hai chức vụ Đảng và chính quyền, “Bí thư kiêm chủ tịch thì to quá, ai kiểm soát?”. Năm 1995 khi cựu TT Võ Văn Kiệt gởi Thư cho BCT đề nghị bãi bỏ cách tổ chức “Tập trung dân chủ” trong Đảng vì nó phản dân chủ, chính Nguyễn Phú Trọng đã kết án gay gắt: “Đảng ta đã khẳng định dứt khoát giữ vững và thực hiện tốt các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng, đặc biệt là nguyên tắc tập trung dân chủ…Đảng ta cho rằng, thực hiện tập trung dân chủ là vấn đề có tính nguyên tắc của một đảng mác-xít, là một tiêu chí quan trọng để xem đảng có phải là đảng Mác-Lê-nin chân chính hay không. Phủ nhận nguyên tắc tập trung dân chủ là phủ nhận Đảng từ bản chất; xóa bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ là phá hoại sức mạnh của Đảng từ gốc.”
Nhưng nay vì thèm khát danh vọng, thấy cái ghế CTN thì chóa mắt, cho nên với việc thu tóm cả hai chức TBT (cầm đầu đảng) và CTN (đứng đầu cả nước) chính ông Trọng đã vứt vào sọt rác nguyên tắc tổ chức lãnh đạo tập thể theo “tập trung dân chủ” ở ngay cấp cao nhất trong chế độ toàn trị, một việc làm từ sau khi HCM mất (1969) vẫn được duy trì, và chính ông cũng đã hô hoán quyết tâm bảo vệ! Như thế chính ông Trọng đã “phá hoại sức mạnh của Đảng từ gốc.”
Từ bao nhiêu năm qua Nguyễn Phú Trọng vẫn tự vỗ ngực rao giảng đạo đức cho cán bộ các cấp với các chủ trương chống tha hóa quyền lực và quyết “nhốt quyền lực vào trong lồng”. Nhưng điều này chỉ áp dụng cho đối thủ trong đảng. Riêng cho phe cánh và đặc biệt cho chính cá nhân mình thì Nguyễn Phú Trọng lại không ngần ngại dùng mọi thủ đoạn, kể cả phi pháp, để mở rộng quyền lực vô giới hạn; áp đặt cho bằng được để được xếp vào “trường hợp đặc biệt” để giữ tiếp ghế TBT, mặc dầu đã trên 70 tuổi và vi phạm nghiêm trọng cả Điều lệ đảng và các Nghị quyết của các HNTU về những tiêu chuẩn chọn lựa người đứng đầu chế độ. Những hành động cực kỳ độc tài và nham hiểm này chứng tỏ Nguyễn Phú Trọng như một thủ lãnh Mafia đang thao túng và tham nhũng quyền lực ngày càng bất trị nhất từ trước tới nay! (Xem Chương bảy và tám).
II. Sử dụng công thức đổi mới cực kỳ sai lầm làm cho ĐCS đang biến thể thành các nhóm lợi ích của một số người có quyền lực và tiền bạc, đảng viên thất vọng, quay lưng và đang tự diễn biến
Các chủ trương độc tài nói trên và thói kiêu ngạo quyền lực của những người cầm quyền bất chính đang làm sống dậy những tàn tích của các thời phong kiến và thực dân. Những gì mà 100 năm trước HCM -người sáng lập chế độ toàn trị- từng kết án gay gắt lại đang đứng sừng sững ở VN vào đầu Thế kỷ 21 dưới chế độ XHCN! Hãy so sánh chính sách báo chí thời thực dân Pháp và thời Nguyễn Phú Trọng. Đầu Thế kỷ 20 ông Hồ kết án thực dân Pháp đang giết chết quyền tự do báo chí và lập hội: “Chúng tôi không có quyền tự do báo chí và tự do ngôn luận, ngay cả quyền tự do hội họp và lập hội cũng không có!” Nhưng hiện nay đầu Thế kỷ 21 Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định, đảng phải độc quyền báo chí: “Báo chí là phương tiện thông tin, công cụ tuyên truyền, vũ khí tư tưởng quan trọng của Đảng và Nhà nước… dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước” và “không để tư nhân sở hữu báo chí”. Cho tới nay chế độ toàn trị cũng như thực dân trước đây, vẫn cấm không cho nhân dân được lập hội và biểu tình!
Chính sách bóc lột và tệ trạng tham nhũng thời thực dân Pháp rất tồi tệ, nên đầu Thế kỷ 20 chính HCM đã kết án gay gắt chính sách thuộc địa bóc lột nhân dân và khai thác tài nguyên VN của thực dân Pháp chỉ “để làm giàu cho một số cá mập!” Nhưng đầu Thế kỷ 21 số cá mập đỏ lại đang mọc ra như rươi trong chế độ toàn trị do ông Hồ xây dựng lên. Chính Trương Tấn Sang, khi còn là CTN, đã phải nhìn nhận sự tung hoành của bọn cán bộ tham quan như: “Một con sâu đã nguy hiểm rồi, một bầy sâu là ‘chết’ cái đất nước này”.
Các tệ trạng biến nhà công thành nhà ông, đất công thành đất ông, chiếm đất phi trường xây sân golf cho các tướng kinh doanh, các quan đỏ chiếm đất xây các biệt thự, khu nghỉ mát… Tình trạng cán bộ từ cấp cao trở xuống tham nhũng tài sản công, xà xẻo tiền bạc hàng tỉ Dollar từ các công trình xây dựng đường xá, cầu cống có nguồn vốn từ ODA nổi tiếng trên thế giới. Ở nhiều nước Dân chủ đa nguyên từ tổng thống, thủ tướng, bộ trưởng tới các dân biểu đều phải kê khai tài sản công khai, ai muốn theo dõi đều có thể đọc được trong các công báo điện tử. Nhưng hiện nay tại VN thì không cơ quan nào dám đụng tới. Chính Nguyễn Phú Trọng kiêm Trưởng ban chỉ đạo Trung ương phòng chống tham nhũng (TBCĐTUPCTN) cũng phải cúi đầu nhìn nhận sự bất lực không thể bắt cán bộ kê khai tài sản, “vấn đề kê khai tài sản cán bộ là vấn đề rất khó, nhạy cảm bởi nó liên quan đến quyền đời tư, quyền bí mật cá nhân”!!
Về chính sách kinh tế của thực dân Pháp, đầu thế kỷ trước Hồ Chí Minh vạch tội: “Nếu bọn thực dân Pháp rất vụng về trong việc phát triển nền kinh tế ở thuộc địa, thì họ lại là những tay lão luyện trong nghề đàn áp dã man và trong việc chế tạo ra cái lòng trung thành bắt buộc.” Nhìn vào xã hội VN hiện nay thì sao lại giống nhau một cách lạ lùng đến như thế. Hiện nay trong lãnh vực kinh tế không chỉ vụng về mà phải nói đúng là ngu dốt! Trên 60 năm theo mô hình kinh tế XHCN đã xô đẩy VN thành một nước nghèo đói, tụt hậu, hàng bao nhiêu triệu công nhân chỉ vẫn làm gia công, cái đinh ốc cũng không tự làm được, năng suất lao động chỉ bằng 1/16 của Singapore! Trước kia thực dân Pháp bắt người Việt phải trung thành với mẫu quốc, nay ĐCS bắt quân và dân ta phải trung thành với Đảng; từ Nguyễn Phú Trọng đến Nguyễn Xuân Phúc đòi quân đội, công an phải trung thành tuyệt đối với đảng và nhân dân không được có những hành động chống Đảng. Trong dịp kỷ niệm 70 năm thành lập Quân dội Nhân dân Nguyễn Phú Trọng đã ra lệnh cực kỳ sai lầm là, “bất luận trong hoàn cảnh, điều kiện nào cũng phải kiên định nguyên tắc ĐCSVN lãnh đạo QĐND VN tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt.”
Nói tóm lại, một xã hội độc đảng trong tổ chức và độc tôn trong ý thức hệ dẫn tới không có cạnh tranh (cả trong kinh tế, chính trị lẫn văn hóa, khoa học) thì sẽ dẫn tới xuống dốc, tụt hậu. Nhưng một xã hội cạnh tranh không lành mạnh sẽ dẫn tới thối nát, tham nhũng, bất công, cá lớn nuốt cá bé như chế độ tư bản rừng rú hai thế kỷ trước!
VN hiện nay đang rơi vào cả hai đại họa này! Vì phải sống dưới chế độ độc tài toàn trị quá lâu mà lại áp dụng Kinh tế thị trường định hướng XHCN; thả cửa tự do cho các doanh nghiệp nhà nước giành đặc lợi, đặc quyền, xà xẻo từ nguồn ODA lên tới cả gần trăm tỉ USD và đục khoét ngân quĩ quốc gia; chiều đãi các công ti FDI, nhưng lại bỏ rơi các doanh nghiệp nội địa; khinh miệt nông dân, khinh nội trọng ngoại! Trong khi đó các cơ quan pháp luật và kiểm tra trở thành công cụ của những người có quyền lực và toa rập với các quan đỏ đại gia. Các chính sách cực kỳ mâu thuẫn và sai lầm này đang tự do hoành hành suốt trên 30 năm, nên đang đẻ ra các nhóm lợi ích làm giầu bất chính nhanh qua tham nhũng và bóc lột, đưa tới bất công, tha hóa đạo đức của các tầng lớp cán bộ; gây thất vọng trong hàng ngũ đảng viên và tạo bất bình ngày càng gay gắt trong các tầng lớp nhân dân.
Vì thế ĐCS ngày nay sau hơn ba thập niên treo bảng “đổi mới” theo cách giả hiệu và dối trá treo đầu dê bán thịt chó như hiện nay, cuối cùng chỉ dẫn đến làm lợi và tay sai cho những phe nhóm có quyền lực và tiền bạc.
Cho nên nó không còn là ĐCS như thời kỳ ban đầu. Đại đa số đảng viên CS không còn là người “tiên phong” mà chỉ là những kẻ đi hậu, đang trở thành bọn tham nhũng, hôi của và đàn áp dân! Xã hội VN cũng biến dạng sâu sắc theo chiều hướng cực xấu và đi xuống. Câu “ra ngõ gặp anh hùng” mấy thập niên trước đây, nay đã trở thành ra ngõ chạm trán với công an gian ác và nhìn thấy bọn quan tham nhũng sống vương giả trong các biệt thự, nhưng lại cực kỳ độc ác với dân và hèn hạ trước đế quốc BK!
***
Nói theo hình tượng, một chính sách có thể ví như môt sản phẩm. Để thành hình một sản phẩm phải trải qua một số khâu công việc chính: người sáng tạo (kiến trúc sư), tư tưởng (ý niệm), các phương tiện cần thiết, các chất liệu sử dụng, cách chế tạo, sản suất và người tiêu dùng. Nếu người sáng tạo có mục tiêu trong sáng, tư tưởng tốt, biết dùng chuyên viên và cân nhắc sử dụng chất liệu, chế tạo ra những sản phẩm thích hợp, giá cả hợp lý thì sẽ được người tiêu dùng ưa thích. Nhưng nếu người sáng tạo có tư tưởng sai, nuôi ý định xấu, dùng người không có khả năng, sử dụng các chất liệu tồi, sản phẩm chỉ bóng nhoáng bề ngoài, thì trước sau người tiêu dùng sẽ khám phá ra và tẩy chay. Món phở VN thường được nhiều người ưa chuộng. Nhưng không phải phở nào cũng được mọi người thích. Có những loại phở không ai thích ăn, vì người nấu dở và pha trộn những thứ không hợp với nhau. Có những đầu bếp giỏi và biết trọng khách hàng; nhưng cũng có những đầu bếp tồi làm ăn thiếu lương tâm, làm ăn không lương thiện. Gần đây một số hãng xe hơi nổi tiếng ở Âu châu và Nhật đã bị phạt nặng và bị tai tiếng lớn, vì các chủ nhân đã vô lương tâm, chỉ ham tiền nên đã gian lận kĩ thuật làm thiệt hại cho người tiêu dùng và gây ô nhiễm môi trường.
Công thức “Đổi mới” của chế độ toàn trị CSVN từ 1986 cũng là một sản phẩm. Tuy nhiên đây là một sản phẩm chính trị, không phải lúc nào cũng nhận ra ngay và rõ ràng như trong một sản phẩm kinh tế, kĩ thuật. Công thức đổi mới từ 1986 bao gồm các lãnh vực chính: Người sáng tạo (ở đây là những người cầm đầu ĐCS độc tài và gian ác) + Lấy tư tưởng Marx Lenin làm chỉ đạo dù đã bị thực tiễn chứng minh là cực kỳ sai lầm + Chọn cán bộ trung thành chỉ biết xu nịnh + Các chất liệu kinh tế bao gồm DNNN, FDI, kinh tế tư nhân nội địa, xuất cảng làm trọng tâm; trong đó hành động theo thái độ khinh trong trọng ngoài + Các chất liệu ngoại giao: Tùng phục BK, mở cửa kinh tế với Tây phương trong tư thế “mở cửa nhưng lại sợ ruồi muỗi bay vào!”. Cần lưu ý, thời kỳ “đổi mới” ở VN diễn ra khi Liên xô sụp đổ, Chiến tranh lạnh chấm dứt và khởi đầu hai cuộc Cách mạng mới có qui mô toàn cầu, đó là toàn cầu hóa kinh tế-tài chính và kỷ nguyên Internet điện tử.
Nếu so sánh với môi trường và hoàn cảnh chính trị giữa hai giai đoạn trước và sau 1986 thì có nhiều khác biệt rất căn bản. Từ một đảng tương đối đồng nhất, thuần nhất cả trong tư tưởng lẫn đời sống, hạt muối cắn đôi cùng nhau chia ngọt xẻ bùi trong tình đồng chí của thời kỳ chiến tranh và ý thức hệ Marx-Lenin còn là kim chỉ nam dẫn đường. Nhưng sau trên ba thập niên chạy theo “công thức đổi mới” nói trên từ 1986 đến nay, chứa đầy mâu thuẫn và sai lầm từ chủ trương tới thực hiện, khiến cả đảng và xã hội đã biến chất rất nhanh theo chiều hướng đi xuống: Sự giầu sang theo kiểu trọc phú và bất chính của nhiều cán bộ có máu mặt ở các địa phương và nhất là ngay các tướng công an, quân đội, rồi cả các bộ trưởng, ủy viên trung ương, ủy viên bộ chính trị… đang sống rất xa cách và hống hách với các đồng chí và nhân dân. Sa đọa đạo đức và cực kỳ vô cảm của tầng lớp lãnh đạo hiện nay đã được chính Nguyễn Phú Trọng xác nhận và đã từng than thở, không biết rồi đây đảng này là đảng của ai và các đồng chí ngồi trong lầu xanh có còn nghĩ tới các đồng chí và nhân dân phải ăn canh ôi, gạo mục không! Liên xô đã chết và chủ nghĩa Marx-Lenin cũng đã bị chôn vùi, trong đảng chẳng mấy người còn tin. Tình hình “xa Đảng nhạt Đoàn” ngày càng phổ biến trong đảng viên và thanh niên, như Nguyễn Phú Trọng đã phải nhìn nhận.
Trước đây tình đồng chí và chủ nghĩa Marx-Lenin như hai chất keo giữ cho các đảng viên đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi. Nay hai chất keo giữ cho đảng đứng vững đã bị mất. Hiện nay những đồng Dollar xanh còn quyến rũ mạnh hơn tiếng gọi của HCM. Các ghế trong TUĐ, trong bộ Công an và trong các Hội đồng quản trị của các tập toàn và tổng công ti nhà nước là những nơi đang hái ra tiền, hét ra lửa, nên chúng có sức thu hút mạnh như ngựa không cương! Cũng từ đó cán bộ các cấp chỉ biết lo cho bản thân, gia đình và bè cánh; bệnh ghen ghét nhau, giành giật nhau, thanh toán lẫn nhau trở thành công khai và cực kỳ tàn bạo, cường độ và tốc độ ngày càng bùng nổ. Mâu thuẫn quyền-tiền dẫn tới đối kháng, xung đột và thanh toán lẫn nhau. Trong khi ấy toàn xã hội lại không có những cơ chế và tổ chức độc lập và đủ mạnh để ngăn ngừa và trừng phạt nghiêm minh và công khai. Vì thế tầng lớp cán bộ có quyền và nắm tiền càng trở nên kiêu ngạo, hống hách, tha hóa đạo đức, vô cảm trước những bức xúc của nhân dân, xã hội ngày càng trở nên bất trị.
***
Nếu so sánh mức độ, tốc độ và tầm vóc dính dấp của các cán bộ cấp cao và những thiệt hại gây ra cho xã hội trong các vụ tham nhũng, phí phạm tài sản quốc gia bị phanh phui ra từ vụ Năm Cam (2001), PMU 18 (2005), Vinashin (2010-11) tới PVN (2017-18) thì phải kinh hoàng thấy là, mức tham nhũng và lãng phí trong những năm đầu “đổi mới”chỉ từ vài triệu Mỹ kim, nhưng nay đã bung ra lên tới hàng tỉ Mỹ kim. Từ cách làm ăn theo lối Mafia của một côn đồ Năm Cam bên ngoài, chỉ vài năm sau cách làm ăn Mafia đã chui ngay vào trong các cơ quan của đảng và chính phủ của một số cán bộ cấp cao-trung (vụ PMU 18). Nhưng hiện nay đang lộ diện công khai, các thủ lãnh Mafia lại chính là các UVTU, các bộ trưởng và các ủy viên Bộ chính trị -cấp chóp bu của chế độ toàn trị- như trong các vụ Vinashin và PVN! Tham nhũng và lạm quyền từ phạm vi cá nhân hay vài người, nay đang mở rộng bộc phát trở thành các nhóm lũng đoạn ngay trong các cấp chóp bu BCT, BBT và TUĐ và đi xuống cả các Ban trong đảng, các Bộ trong chính phủ, các ngành quân đội, công an, hải quan, thuế vụ….Một số vụ bị đưa ra ánh sáng gần đây mới chỉ như phần nổi của tảng băng. Tình trạng tham nhũng thối nát cả quyền lực lẫn tiền bạc thực sự trong các cấp, các ngành còn kinh khủng hơn không thể tưởng tượng được!
Đổi mới kinh tế theo công thức: Đảng độc tài + KTTT ĐHXHCN với DNNN làm chủ đạo + Mở cửa với bên ngoài để thu hút ngoại tệ mạnh. Chủ trương này được triển khai vào thực tế qua mô hình với hai thành phần chính là các tập đoàn và tổng công ti nhà nước trở thành những đứa con cưng nắm độc quyền các huyết mạch kinh tế, cùng với sự ưu đãi cho hàng ngàn doanh nghiệp đầu tư nước ngoài FDI. Mô hình kinh tế này do ĐCS độc quyền, dưới sự chỉ huy độc đoán của những cán bộ đầy quyền lực và rất tham lam, nhưng lại không có khả năng chuyên môn.
Dòng chẩy của hàng ngàn tỉ Dollar suốt trên 30 năm vào một cái ao tù gần như đã khô cạn, tạo nên vẩn đục hôi tanh. Vì thế diễn ra tình trạng cá lớn nuốt cá bé, mạnh giết yếu theo luật rừng xanh. Sức mạnh Dollar cùng với tài sản bất chính (nhà cửa và vất đai) sau 30 năm tích lũy đã thẩm thấu vào mọi sinh hoạt trong toàn bộ cấu trúc xã hội của chế độ toàn trị, đẻ ra một số tầng lớp đại gia đỏ, “thượng lưu mới” trong Đảng và ngoài xã hội: Trong Đảng và bộ máy Nhà nước thành hình rất nhanh và tụ tập ngày càng đông những lớp “thượng lưu mới”, gồm cán bộ trong các ban quản trị của các tổng công ti và tập đoàn nhà nước, cấu kết với cán bộ các cơ quan đảng và chính phủ liên quan tới hoạch định các chính sách và có quan hệ trực tiếp với DNNN và FDI. Cả cán bộ các ngành công an, kiểm tra, tòa án, thuế vụ, quan thuế và tuyên giáo cũng bị đồng tiền và quyền lực sai khiến. Thậm chí cả ngành giáo dục cũng bùng nổ bệnh mua bằng cấp giả và ngành y tế cũng phải chìa phong bì cho bác sĩ…!
Theo cách vận hành của bộ máy chuyên chế, nên các Ban trong Đảng, các Bộ trong Chính phủ và Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) đều tham dự trực tiếp hay gián tiếp vào guồng máy xin-cho. Bên đi xin thì phải chìa phong bì hối lộ, bên cho thì tự do tham nhũng và đưa ra yêu sách. Mức tham nhũng gia tăng cực mạnh với thời gian, những năm đầu chỉ vài ngàn Dollar, nhưng sau đó lên hàng chục ngàn, trăm ngàn và nay tham nhũng cả hàng chục, hàng trăm triệu Dollar! Với thời gian các cán bộ tham nhũng mở rộng vây cánh thành gia đình trị, phe nhóm riêng, cấu kết với tư sản ngoài đảng và FDI. Dần dần trở thành các lực lượng có thế lực mạnh cả về tiền bạc lẫn số lượng và đang đóng vai trò chủ động trong các quyết định của Đảng, ngay từ trong giai đoạn lập chính sách; đưa tới xung khắc, mâu thuẫn quyền lợi và chống đối lẫn nhau. Các thành phần “thượng lưu đỏ” này đang mua chuộc, giành giật ảnh hưởng trong quân đội và công an -2 chân đứng của chế độ toàn trị khi trước. Các cơ quan tuyên giáo, báo chí, tòa án… cũng biến thành sân sau, chịu sự chi phối mạnh mẽ của họ! Hiện nay nhiều vụ đại án mới như Vũ Nhôm, Mobiphone… đều có sự thông đồng của các thứ trưởng, thượng tướng Công an, các bộ trưởng và nguyên bộ trưởng Thông tin tuyên truyền, tức thủ lãnh ngành Tuyên giáo đã chứng minh bệnh tham nhũng quyền-tiền đã chạy lên tâm-não của chế độ toàn trị.
***
Sức mạnh của quyền-tiền và chạy theo danh vọng không chỉ bẻ gẫy toàn bộ hệ thống pháp luật của chế độ toàn trị, đốt cháy lương tâm của cán bộ cấp cao ngay trong BCT và TUĐ. Từ đó đã dẫn tới cán bộ đảng viên tự diễn biến xấu, thoái hóa đạo đức và cuối cùng làm đảng cũng biến dạng trở thành cái hình nộm cho các nhóm lợi ích. Sự giầu sang rất nhanh nhưng bất chính của một số tầng lớp cán bộ có quyền lực, khiến tâm lý của họ thay đổi, dẫn tới thay đổi bậc thang giá trị trong các tính toán của họ. Từ đó thái độ và cách cư xử cũng thay đổi trong mỗi đảng viên và giữa các đảng viên với nhau…Sự phân hóa ngày càng sâu sắc trong đảng không phải từ cấp dưới mà phát suất bùng nổ ngay từ Bộ chính trị, bộ não của chế độ toàn trị.
Về đại thể, đảng viên đang tự phân hóa thành 4 thành phần khác nhau:
Tham nhũng quyền lực, tham nhũng tiền bạc, đứng giữa, xa lánh đảng và chống lãnh đạo. Các Nghị quyết chống “tự diễn biến, tự chuyển biến” và “diễn biến hòa bình” trong đảng, các cuộc phát động tự phê bình và phê bình rầm rộ nhất ngay trong BCT và TUĐ, các cuộc “lấy phiếu tín nhiệm” trong QH và HNTU và các phong trào “chống tham nhũng” dưới thời Nguyễn Phú Trọng là bằng chứng rất rõ ràng và thước đo về sự kình chống lẫn nhau và phân hóa ngày càng nghiêm trọng trong đảng.
Trong khi ấy thành phần chỉ đạo “công thức đổi mới” lại có năng lực lãnh đạo rất thấp, tư cách rất tồi tệ, không có uy tín nhưng vẫn giữ thói “kiêu ngạo Cộng sản” và cực kỳ lạnh lùng, vô cảm trước những bức xúc của nhân dân và nguy cơ của đất nước. Thay vì dựa vào dân, đoàn kết trong BCT, TUĐ và tập trung tâm trí và sức lực vào công cuộc tái thiết đất nước, họ lại chỉ lo lập các phe phái kỳnh chống lẫn nhau! Sự chống đối lẫn nhau bùng nổ diễn ra từ thời Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh và tới thời Nguyễn Phú Trọng càng khốc liệt hơn.
Nguyễn Văn Linh khai mào đổi mới, hô hoán “cởi trói” cho các văn nghệ sĩ, nhưng chưa bắn đã run, nên đã bị phe bảo thủ sớm cho về vườn trông gà. Thời Đỗ Mười làm TBT đã xẩy ra những cuộc đấu khẩu về đường lối giữa một bên là phe cực kỳ giáo điều của Đỗ Mười-Lê Đức Anh và bên kia là TT Võ Văn Kiệt với Thư gởi BCT ngày 9. 8.1995, cùng một số trí thức và chuyên viên thức thời cấp tiến. Thời Lê Khả Phiêu chỉ kéo dài hơn ba năm nhưng đã đưa tới “đảo chính” ngay trong cung đình toàn trị, các “Thái thượng hoàng” Đỗ Mười-Lê Đức Anh vì tham nhũng quyền lực nên đã ép Lê Khả Phiêu phải thoái vị để đặt Nông Đức Mạnh dễ sai bảo vào ghế TBT suốt 10 năm làm bù nhìn.
Từ khi Nguyễn Phú Trọng làm TBT (từ 2011) sự tranh giành quyền lực và tiền bạc ở ngay cơ quan đầu não của chế độ toàn trị, tức BCT, đã bùng nổ cực kỳ mãnh liệt và tàn bạo suốt trong nhiều năm. Trong đó đỉnh cao tranh chấp của hai phe tham nhũng quyền lực và tham nhũng tiền bạc giữa hai thủ lãnh Nguyễn Phú Trọng và Nguyễn Tấn Dũng. Trong vụ Vinashin làm thất thoát cả hàng trăm ngàn tỉ đồng, nhưng vì hai ghế TBT và TT rất béo bở nên hai người này tạm thời thỏa hiệp với nhau trên sự thiệt hại rất lớn ngân quĩ quốc gia do tiền thuế đóng góp của nhân dân.. Nhưng liền sau đó cuộc trường chinh kéo dài suốt 5 năm giữa người cầm đầu đảng Nguyễn Phú Trọng và người cầm đầu chính phủ Nguyễn Tấn Dũng. Những cuộc bôi bẩn và thanh toán lẫn nhau kéo dài suốt nhiều năm giữa hai ĐH 11-12 (2011-16). “Đồng chí X” nhiều lần làm nhục “Đồng chí mếu” ngay tại các HNTU làm trò cười cho cả trong đảng lẫn ngoài xã hội. Các “đồng chí” trong BCT chia phe hầm hè thanh toán lẫn nhau thâm độc, giở các thủ đoạn tồi tệ và độc ác “lạnh tanh như máu cá”. “Đồng chí mếu” giở những thủ đoạn lưu manh và tàn bạo hơn được xếp vào “trường hợp đặc biệt” để lì lợm giữ tiếp ghế TBT; nên “Đồng chí X” thất thế phải trở về để “làm người tử tế”! (Xem Chương sáu và bẩy).
Sau khi hạ được Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Phú Trọng đang ra tay trả thù các đối thủ dưới danh nghĩa chống tham nhũng, chống tự diễn biến…; từ bỏ tù cựu UVBCT Đinh La Thăng tới cách chức một số UVTU. Tuy vậy việc kê khai tài sản công khai minh bạch của cán bộ, công chức cấp cao là biện pháp rất quan trọng được thực hành nghiêm chỉnh ở nhiều nước DCĐN, nhưng dưới chế độ DCXHCN -dân chủ hơn cả ngàn lần các xã hội dân chủ phương Tây- cho tới nay vẫn không thể thực hiện được, mặc dầu đã ban bố bao nhiêu Nghị quyết của các ĐH và HNTU suốt mấy chục năm. Giữa năm 2018 Nguyễn Phú Trọng nhận là người đốt lò thiêu tham nhũng phải thừa nhận bất lực trong việc cực kỳ quan trọng này: “Vấn đề kê khai tài sản cán bộ là vấn đề rất khó, nhạy cảm bởi nó liên quan đến quyền đời tư, quyền bí mật cá nhân.”
Không bắt được cán bộ dưới quyền kê khai tài sản, nhưng Nguyễn Phú Trọng lại được 100% trong HNTU 8 và 100% trong QH bầu làm Chủ tịch nước chỉ ít ngày sau Trần Đại Quang mất; mặc dầu hành động vội vàng vơ cả ghế CTN cho cá nhân mình là công khai bẻ gẫy nguyên tắc tổ chức “tập trung dân chủ” của ĐCS.(CS 3.10 &23.10.18) Một điều mà chính ông Trọng đã thề thốt phải bảo vệ đến cùng! Những sự kiện trên chứng minh rất rõ ràng là, Nguyễn Phú Trọng vì nuôi tham vọng quyền lực quá cao và quá nhiều, nên phải ra sức chiều chuộng bọn dưới quyền và vì thế, ông đang trở thành trò chơi cho bọn quan đỏ tham nhũng quyền-tiền!
***
Nói tóm lại, những người cầm đầu chế độ toàn trị thực hiện đổi mới theo công thức cực kỳ sai lầm là: Một đảng độc tài đã thao túng quyền lực quá lâu suốt gần 70 năm, nay lại giành đặc quyền đặc lợi cho các DNNN, đồng thời lại khinh trong trọng ngoài, o bế các công ti đầu tư nước ngoài, nhưng khinh thường giới doanh nhân trong nước. Chính vì thế nên sau hơn 30 năm đã dẫn tới những hậu quả cực kỳ nguy hiểm cho cả ĐCS lẫn đất nước trong mọi lãnh vực. Đây chính là chính sách đổ dầu (đảng độc tài) vào lửa (tham nhũng qua các DNNN). Vì thế tham nhũng tiền bạc và tham nhũng quyền lực và lãng phí công quĩ đang trở nên bất trị từ các cơ quan trong Đảng và Nhà nước. Nó dẫn tới tình trạng nợ công như cái thùng không đáy. Và hiện nay ĐCS trở thành tay sai của các nhóm lợi ích chỉ lo tranh giành quyền-tiền, sẵn sàng thanh toán lẫn nhau. Toàn bộ nền kinh tế VN ngày càng đi xuống và lệ thuộc bên ngoài, nhất là TQ; xã hội trở thành thối nát, cá lớn nuốt cá bé, quyền-tiền đánh bạt đạo đức và lương tâm! “
10.09.2019
TS.Âu Dương Thệ