“Bằng cách loại bỏ những tuyên bố mơ hồ về chủ quyền ‘từ thời xa xưa’ và đòi hỏi bằng chứng cụ thể về hoạt động hành chính thực, Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ) cũng cho những bên tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông một lối thoát ra khỏi bế tắc.”

Bill Hayton

Bản đồ Biển Đông với các đòi hỏi về chủ quyền của các nước có liên quan trong khu vực  RFA

Làm cách nào để giải quyết những tranh chấp lãnh hải tại Biển Đông mà suốt mấy thập niên qua gây rối rắm cho các nhà ngoại giao và tạo nên những nỗi sợ về xung đột giữa các siêu cường?

Vấn đề theo học giả người Anh Bill Hayton thì thực sự khá là đơn giản. Hãy cứ công nhận rằng nước đang chiếm cứ thực thể nào thì có tuyên bố tốt nhất về chủ quyền đối với thực thể đó.

Ông Hayton, chuyên gia nghiên cứu cấp cao thuộc Chương trình Châu Á- Thái Bình Dương của Viện Nghiên cứu Quốc tế Hoàng Gia Anh, chia sẻ quan điểm của ông trong một bình luận gần đây trên ấn phẩm ‘Perspective (Góc nhìn)’ của Viện Nghiên cứu Đông Nam Á- Yusof Ishak ở Singapore.

Ông lập luận rằng những nhà nghiên cứu hiện nay “biết đủ về lịch sử của Biển Đông để có thể giải quyết những tranh chấp chủ quyền đối với những đá và bãi khác nhau tại đó.”

Những dữ liệu cơ bản về tranh chấp Biển Đông được nhiều người biết rõ. Sáu nước gồm Brunei, Trung cộng, Malaysia, Philippines, Đài Loan và Việt Nam đều có những tuyên bố tranh chấp lãnh hải. Trung cộng có tuyên bố rộng lớn nhất, lên đến 90% vùng biển này và được đánh dấu bởi đường gọi là chín đoạn. Trung cộng nói họ có quyền lịch sử đối với vùng biển đó- đây là một quan điểm bị một tòa án quốc tế bác bỏ hồi năm 2016; nhưng Bắc Kinh từ chối công nhận phán quyết đó. Lập trường của Trung cộng cũng khiến nước này bất đồng với các cường quốc Phương Tây, đặc biệt là Hoa Kỳ.

Tranh chấp không chỉ về những tuyên bố chủ quyền đối với những đảo nhỏ và bãi nằm rải rác khắp Biển Đông, mà còn là tuyên bố về quyền tài phán đối với vùng biển đi với những thực thể đó.

Do đó, một quốc gia thứ bảy là Indonesia cũng bị cuốn vào. Mặc dù Indonesia không tự xem là một trong những bên của tranh chấp, thế nhưng Trung cộng tuyên bố quyền lịch sử đối với những phẩn biển chồng lấn với vùng đặc quyền kinh tế của Indonesia.

Ông Hayton nói rằng trong sáu bên có tranh chấp chính thức, tất cả đều tuyên bố ít nhất một đảo nhỏ, và “một số đảo nhỏ được ít nhất năm nước tuyên bố có chủ quyền”. Những tuyên bố tranh chấp luôn được nghĩ là “quá phức tạp không thể giải quyết.”

Cũng theo lời ông Hayton “Người ta suy nghĩ rằng có quá nhiều đá và bãi, quá nhiều bên tuyên bố chủ quyền, quá nhiều lịch sử nên việc cố gắng hiểu và gỡ rối tất cả những tuyên bố chồng lấn là điều không thể.”

Nhưng học giả Bill Hayton lại cho rằng theo suy nghĩ của ông thì điều đó không đúng. Vấn đề tranh chấp lãnh hải tại Biển Đông chỉ mới khởi sự từ hồi đầu thế kỷ thứ 20 do đó đừng cứ phải nhìn vào hằng ngàn năm lịch sử.

Ảnh chụp vệ tinh Đá Chữ Thập ở Trường Sa hôm 20/8/2021. Planet Labs Inc.

Vai trò của Tòa Án Công Lý Quốc Tế

Vị học giả này giải thích:  “Vấn đề thực tế là những nước tuyên bố chủ quyền khác nhau đóng khung tuyên bố của họ cho mọi tuyên bố đối với những nhóm đảo. Do đó rất khó để giải quyết tuyên bố của ai là tốt nhất đối với toàn bộ một nhóm đảo nào.”

Đơn cử, Trung cộng và Việt Nam đều tuyên bố chủ quyền đối với toàn bộ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Theo học giả Bill Hayton thì một khi bạn cố gắng gỡ rối, kết giải các tuyên bố, và xem nước nào có tuyên bố tốt nhất đối với thực thể cụ thể nào, lúc đó mọi sự trở nên dễ dàng hơn nhiều. Không có quốc gia, nhà nước hay chế độ nào đã từng kiểm soát toàn bộ Biển Đông.

Theo quan điểm của học giả Bill Hayton thì việc tách những tuyên bố chủ quyền mở rộng ra toàn bộ những nhóm đảo thành những tuyên bố cụ thể đối với những thực thể đã được đặt tên sẽ mở ra một con đường đến thỏa hiệp tương nhượng và giải quyết các tranh chấp.

Học giả Bill Hayton chỉ ra rằng từng có những tiền lệ thành công tại Đông Nam Á. Indonesia và Malaysia đã giải quyết tranh chấp đối với các đảo Ligitan và Sipadan vào năm 2002; tương tự Malaysia và Indonesia cũng giải quyết tranh chấp đối với ba nhóm đảo đá không có người ở tại Eo Singapore hồi năm 2008. Trong cả hai trường hợp Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ) đều đóng vai trò quan trọng.

Ông Hayton đề nghị: “Bằng cách loại bỏ những tuyên bố mơ hồ về chủ quyền ‘từ thời xa xưa’ và đòi hỏi bằng chứng cụ thể về hoạt động hành chính thực, ICJ cũng cho những bên tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông một lối thoát ra khỏi bế tắc.”

Ông cho rằng bằng chứng lịch sử về hoạt động hành chính tại những đá và bãi tranh chấp cho thấy rằng nước đang chiếm đóng mỗi thực thể là bên có tuyên bố chủ quyền tốt nhất đối với nơi đó; chỉ trừ một ít trường hợp ngoại lệ.

Ngoại lệ chính sẽ là Quần đảo Hoàng sa nơi mà Việt Nam chiếm hữu chừng phân nửa cho đến khi Trung cộng chiếm toàn bộ vào năm 1974 sau một trận chiến đẫm máu khiến 74 binh sĩ Việt Nam bị giết.

Học giả Bill Hayton nói thêm: “Các Nhà nước Đông Nam Á có ý thức trong việc công nhận sự chiếm đóng thực tế của nhau đối với những thực thể cụ thể và nêu ra một quan điểm thống nhất đối với Trung cộng.”

Trong trường hợp một số nước không muốn tận dụng ICJ và luật quốc tế, ông Bill Hayton đề nghị các tổ chức phi chính phủ có thể tham gia đề tạo thành cái gọi là ‘Tòa Tuyến Hai’. Đây được mô tả là những cuộc thảo luận không chính thức, không trang trọng bởi những đối tượng ngoài chính phủ nhằm giúp tìm ra những giải pháp cho các vấn đề ngoại giao phức tạp.

Ông Hayton nói rằng hoạt động đó có thể “thu thập được những mẫu bằng chứng tranh chấp, kiểm chứng những lập luận pháp lý của nước đòi chủ quyền, và trình bày những kết quả có thể về những phiên xử quốc tế trong tương lai cho các bên tuyên bố chủ quyền và cho công chúng.

Các nhà hoạt động xã hội tại Việt Nam tập trung kỷ niệm 42 năm hải chiến Hoàng Sa ở Hà Nội hôm 19/1/2016. Reuters

‘Những nhiệm vụ khó khăn’

Tuy vậy, học giả Bill Hayton thừa nhận rằng tiến trình đó sẽ không dễ dàng. Ông nói: “Dân chúng ở những nước khác nhau sẽ cho rằng đây là dạng như vừa bán vừa cho thật kinh khủng; tuy nhiên thẳng thắn mà nói thì tất cả các nước đang dựa trên hiện trạng thực tế mà họ sẽ phải chấp nhận. Họ cần phải biến điều đó thành một cam kết chính trị.”

Học giả Mark Valencia tại Học Viện Quốc gia Trung cộng Nghiên cứu về Biển Đông cho rằng đề nghị của Bill Hayton “sẽ có giá trị trong một thế giới lý tưởng. Tuy nhiên thật không may chúng ta không đang sống trong một thế giới lý tưởng và nền chính trị nội địa thấm đẫm chủ nghĩa dân tộc  chắc chắn sẽ chứng tỏ cho thấy một chướng ngại chí tử cho sự chấp nhận và thực thi đề nghị này.”

Ông Valencia còn nói rằng bên cạnh đó hầu hết các chính trị gia tại những nước Đông Nam Á “sẽ cố gắng tránh càng xa càng tốt.”

Vị chuyên gia phân tích hàng hải này cũng cảnh báo rằng do Trung cộng sẽ không chấp nhận và kiên định quan điểm đối với phán quyết của một tòa trọng tài chính thức về không gian biển của Hoa Lục, “khả năng cao không chắc Trung cộng chấp nhận phán quyết do một Tòa Tuyến Hai không chính thức đưa ra liên quan vấn đề lãnh thổ.”

Hơn thế nữa, ý rằng mỗi một bên tuyên bố chủ quyền chỉ giữ nơi mà họ đang chiếm đóng và từ bỏ tuyên bố chủ quyền đối với những thực thể khác cũng từng được đưa ra trước đây mà không ai chấp nhận.

RFA (17.03.2022)