„Bắc Kinh sử dụng một loạt các chiến thuật nhằm lật đổ, bao gồm nhưng không giới hạn như chiến dịch tuyên truyền, xung đột văn hóa, truyền bá tư tưởng, hoạt động tiền tuyến, thâm nhập chính trị, chiến tranh công nghệ và viễn thông, chiến tranh pháp lý, gián điệp kinh tế, gián điệp giáo dục, chiến tranh mạng, chiến tranh cấm vận.“

Cuộc chiến thầm lặng chống lại Hoa Kỳ của Đảng Cộng sản Trung Quốc

Một sĩ quan cảnh sát bán quân sự đứng gác ở Quảng trường Thiên An Môn sau phiên họp toàn thể của Đại hội Nhân dân Quốc gia tại Đại lễ đường Nhân dân ở Bắc Kinh vào ngày 11 tháng 3 năm 2018. (Greg Baker / AFP qua Getty Images)

Trong suốt nhiều thập kỷ, Đảng Cộng sản Trung Hoa đã sử dụng chiến lược ‘chiến tranh không giới hạn’ nhằm làm suy yếu nước Mỹ từ bên trong…

Thầm lặng, lén lút và với độ chính xác phủ rộng, Đảng Cộng sản Trung Hoa (ĐCSTH) đã bắt đầu một cuộc chiến tranh kéo dài hàng thập kỷ với Mỹ để giành quyền thống trị thế giới bằng cách áp dụng một chiến lược quân sự được gọi là “chiến tranh không giới hạn”, điều mà vẫn đang tiếp diễn cho đến ngày hôm nay.

Hầu hết chúng ta đều không biết rằng ĐCSTH đã xâm nhập vào hầu hết mọi lĩnh vực trong đời sống ở Hoa Kỳ, hầu như không có ngành công nghiệp nào là không dính líu đến. Mặc dù mối đe dọa này phần lớn vẫn hiện diện mà không bị phát hiện, nhưng những ảnh hưởng của nó lên Hoa Kỳ, cũng như hậu quả về địa chính trị mà nó mang lại là rất lớn.

Theo đuổi các biện pháp đối đầu quân sự trực tiếp, truyền thống đã trở nên lỗi thời trong thời đại hiện nay, chiến lược độc đáo này đã trở thành trọng tâm trong cách tiếp cận chiến tranh của chế độ Trung cộng.

Chiến lược này được nêu bật trong cuốn sách “Chiến tranh không giới hạn” vào năm 1999, được viết bởi hai đại tá không quân Trung cộng là Qiao LiangWang Xiangsui, và được xuất bản bởi Quân đội Giải phóng Nhân dân, một lực lượng vũ trang của ĐCSTH. Cuốn sách đã được dịch sang tiếng Anh dựa trên các tài liệu gốc từ quân đội.

Bắc Kinh sử dụng một loạt các chiến thuật nhằm lật đổ, bao gồm nhưng không giới hạn như chiến dịch tuyên truyền, xung đột văn hóa, truyền bá tư tưởng, hoạt động tiền tuyến, thâm nhập chính trị, chiến tranh công nghệ và viễn thông, chiến tranh pháp lý, gián điệp kinh tế, gián điệp giáo dục, chiến tranh mạng, chiến tranh cấm vận.

Khai thác, xâm nhập và gián điệp đều là những chiêu trò lặp đi lặp lại. ĐCSTH sử dụng đồng thời tất cả các thủ đoạn ở các mức độ khác nhau trong nhiều lĩnh vực của xã hội để làm suy yếu hoặc gây ảnh hưởng đến Hoa Kỳ – trở ngại chính đối với sự thống trị toàn cầu của nó.

Trong khi một số động thái rõ ràng hơn, chẳng hạn như một lịch sử dài trộm cắp tài sản trí tuệ và các hành vi thương mại không công bằng của Trung cộng với Hoa Kỳ, thì những thủ đoạn khác được sử dụng như “quyền lực mềm” và khó phát hiện hơn.

Một ví dụ điển hình đó là Học viện Khổng Tử do Đảng hậu thuẫn, xâm nhập và hoạt động trong các cơ sở đại học của Mỹ để làm gia tăng hình ảnh của ĐCSTH. Nó cũng có chủ đích thúc đẩy một chính sách đối ngoại nhằm đánh bóng chế độ này để không chỉ được coi là một siêu cường kinh tế, mà còn là một nền văn hóa.

Các Học viện Khổng Tử đã thu hút sự chú ý từ các nhà lập pháp, các tổ chức quốc gia và FBI về các cáo buộc rằng chương trình này làm suy yếu tự do học thuật. Các Học viện Khổng Tử đã bị cáo buộc thúc đẩy tuyên truyền cộng sản Trung cộng dưới sự che đậy quảng bá ngôn ngữ và lịch sử Trung cộng. Có hàng ngàn Học viện Khổng Tử trên toàn thế giới và ít nhất là 75 ở Mỹ.

Các trường hợp khác thì trắng trợn hơn, từ một cựu chủ tịch của khoa hóa học Đại học Harvard gần đây đã bị truy tố vì đưa ra những tuyên bố sai về nguồn tài trợ mà ông ta nhận được từ Trung cộng cho đến một công dân Trung cộng bị kết tội gián điệp kinh tế và âm mưu trộm cắp bí mật thương mại.

Trong trường hợp thứ hai, một người đàn ông được xác định là Hao Zhang, 41 tuổi, bị phát hiện đã cố gắng đánh cắp bí mật thương mại từ hai công ty của Hoa Kỳ vì lợi ích của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Theo Bộ Tư pháp, Zhang cụ thể đã đánh cắp thông tin liên quan đến hiệu suất của các thiết bị không dây.

“Hoạt động gián điệp kinh tế là một mối đe dọa phổ biến trên khắp Hoa Kỳ, đặc biệt là Khu vực Vịnh San Francisco và Thung lũng Silicon, là trung tâm của sự đổi mới và công nghệ”, ông John F. Bennett, đặc vụ FBI phụ trách tại San Francisco, phát biểu về vụ án liên quan đến Zhang.

FBI cho biết, kế hoạch Ngàn Nhân tài, một trong những chương trình tuyển dụng nhân tài của ĐCSTH được biết đến rộng rãi hay các chương trình thu hút chất xám, khuyến khích hành vi trộm cắp tài sản trí tuệ từ các tổ chức của Hoa Kỳ. FBI còn cho biết, bằng cách đưa ra những mức lương hấp dẫn, cơ sở nghiên cứu hiện đại và danh hiệu danh dự, các chương trình này thu hút nhân tài từ nước ngoài vào Trung cộng, “ngay cả khi điều đó đồng nghĩa với việc đánh cắp thông tin độc quyền hoặc vi phạm kiểm soát xuất khẩu”.

Giám đốc FBI Christopher Wray đã làm chứng vào năm 2018 rằng cơ quan này đang cố gắng xem mối nguy hiểm do Trung cộng gây ra “không chỉ là mối đe dọa của toàn chính phủ, mà còn là mối đe dọa lên toàn xã hội”. Để chống lại những thủ đoạn của Trung cộng một cách hiệu quả, Wray nói rằng Hoa Kỳ cũng cần phải áp dụng “một phản ứng mang tính toàn xã hội”.

Walter Lohman, giám đốc Trung tâm nghiên cứu châu Á của Heritage Foundation, cho biết Hoa Kỳ đã rất dè dặt với “những vấn đề nhạy cảm” của Trung cộng, nhưng “vẫn chưa hề nhận lại được gì”. 

“Hành vi hung hăng của Trung cộng trong 15 năm qua chỉ trở nên tồi tệ hơn, bất chấp những nỗ lực lớn nhất của chúng tôi”, ông nói với The Epoch Times.

Ông nói rằng Trung cộng hiện đang là mối đe dọa lớn nhất đối với Hoa Kỳ bởi vì nước này đang “kiểm soát nhiều chỉ tiêu và trực tiếp đe dọa rất nhiều lợi ích của Hoa Kỳ, ví dụ như mạng lưới truyền thông của chúng ta, như Đài Loan, tự do ở Hong Kong và tự do trên biển”.

ĐCSTH cũng đã tích cực thúc đẩy và nâng đỡ các công ty viễn thông của mình, như Huawei và ZTE, cũng như các ứng dụng thuộc sở hữu của Trung cộng như TikTok và Zoom, xâm nhập vào thị trường Hoa Kỳ và trên toàn thế giới.

Các nhà lập pháp và các quan chức Hoa Kỳ đã bắt đầu nhận ra các mối đe dọa an ninh quốc gia mà các công ty Trung cộng này mang đến. Ủy ban Truyền thông Liên bang (FCC) vào tháng 6 đã chính thức chỉ định Huawei và ZTE là mối đe dọa an ninh quốc gia, do đó đã cấm gói ưu đãi 8,3 tỷ đô-la một năm từ Quỹ dịch vụ phổ thông để mua hoặc sửa đổi bất kỳ thiết bị hoặc dịch vụ nào từ các nhà cung cấp.

Một lý do đằng sau quyết định này, như Chủ tịch FCC Ajit Pai lưu ý, là cả hai công ty đều liên kết chặt chẽ với ĐCSTH và bộ máy quân sự của họ, theo đó họ phải tuân theo luật pháp Trung cộng, bắt buộc họ phải hợp tác với các dịch vụ tình báo của quốc gia. Cả hai công ty đều phủ nhận điều này.

TikTok, ứng dụng thuộc sở hữu của Trung cộng, đã chứng kiến ​​sự tăng trưởng thần tốc của mình ở Hoa Kỳ, gần đây cũng bị phát hiện đang bí mật đọc dữ liệu cá nhân của người dùng, mặc dù ứng dụng này tuyên bố rằng nó đã khắc phục vấn đề đó. Có những lo ngại tương tự về Zoom, khi các nhà nghiên cứu phát hiện ra những đoạn khóa mã hóa được gửi về các máy chủ ở Trung cộng.

Trong khi Hoa Kỳ đang tăng cường nỗ lực chống lại các mối đe dọa từ Bắc Kinh, chế độ cộng sản Trung cộng đang đồng thời tích cực tăng cường nỗ lực của mình thông qua Bộ Công tác Mặt trận Thống nhất của ĐCSTH.

Đơn vị này phối hợp hàng ngàn nhóm để thực hiện các hoạt động ảnh hưởng chính trị đối ngoại, đàn áp các phong trào bất đồng chính kiến, thu thập thông tin tình báo và tạo điều kiện chuyển giao công nghệ của các nước khác cho Trung cộng, theo báo cáo tháng 6 của Viện Chính sách chiến lược Úc.

Báo cáo cho biết các sáng kiến gây ​​ảnh hưởng chính trị của nó nhắm vào giới tinh hoa ở nước ngoài, bao gồm các chính trị gia và giám đốc điều hành doanh nghiệp, và thường hoạt động núp bóng. Các cộng đồng người Hoa ở nước ngoài cũng là những mục tiêu chính, khi Đảng tìm cách lợi dụng và kiểm soát các nhóm cộng đồng, hiệp hội doanh nghiệp và phương tiện truyền thông tiếng Hoa.

Alex Joske, tác giả của bản báo cáo, nói rằng Mặt trận Thống nhất hoạt động ở nước ngoài tương đương với việc “xuất khẩu hệ thống chính trị của ĐCSTH”. Nỗ lực của nó “làm suy yếu sự gắn kết xã hội, làm trầm trọng thêm căng thẳng chủng tộc, ảnh hưởng đến chính trị, gây tổn hại đến tính toàn vẹn của truyền thông, tạo điều kiện cho hoạt động gián điệp và tăng chuyển giao công nghệ không giám sát”, báo cáo nêu rõ.

Với các công ty do ĐCSTH hậu thuẫn này, chính quyền Trung cộng đang cố gắng phát huy ảnh hưởng của mình trên toàn cầu, chứ không chỉ ở Hoa Kỳ. Một số chương trình lớn được hậu thuẫn bởi chính quyền cũng tham gia vào tham vọng quốc tế của nó là Sáng kiến ​​Vành đai và Con đường (BRI) và kế hoạch “Made in China 2025” (Sản xuất tại Trung cộng 2025).

ĐCSTH, thông qua BRI, đã bơm hàng tỷ đô-la vào các nước có thu nhập thấp để xây dựng các dự án cơ sở hạ tầng của họ. Kể từ năm 2013, sáng kiến ​​đã khởi động hơn 2.900 dự án trị giá 3,87 nghìn tỷ USD. BRI được gọi là “bẫy nợ” vì các hoạt động cho vay tiền tệ của Bắc Kinh khiến các quốc gia càng dễ bị thao túng trước các chiến dịch gây ảnh hưởng mạnh mẽ của Trung cộng.

Trong hai thập kỷ qua, Trung cộng đã trở thành một chủ nợ lớn toàn cầu, với khoản dư nợ vượt hơn 5,5 nghìn tỷ đô-la trong năm 2019 – hơn 6% tổng sản phẩm quốc nội toàn cầu, theo một báo cáo của Viện Tài chính Quốc tế cho biết.

Và kế hoạch công nghiệp “Made in China 2025″ của ĐCSTH, được triển khai vào năm 2015, tìm cách đưa nước này trở thành đối thủ cạnh tranh toàn cầu trong 10 lĩnh vực công nghệ vào năm 2025. Cuối năm 2018, Bắc Kinh cũng bắt đầu kế hoạch “Tiêu chuẩn Trung cộng 2035” nhằm thúc đẩy trở thành quốc gia hàng đầu trong lĩnh vực công nghệ đang phát triển như dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo và internet vạn vật (IoT).

Trong khi đó, một báo cáo được công bố vào tháng 3 đã xác định rằng Bắc Kinh đang lợi dụng đại dịch virus Corona toàn cầu, lần đầu tiên bùng phát ở Vũ Hán, Trung cộng, để thúc đẩy các mục tiêu kinh tế và thực hiện tham vọng rộng lớn hơn.

Báo cáo của Horizon Advisory, một công ty tư vấn độc lập có trụ sở tại Hoa Kỳ, cho biết: “Bắc Kinh dự định lợi dụng sự rối loạn và suy thoái toàn cầu để thu hút đầu tư nước ngoài, nhằm chiếm lấy thị phần chiến lược và những tài nguyên – nhất là những nơi phụ thuộc vào Trung cộng”. Công ty đã xem xét các chính sách và thông báo gần đây được công bố bởi các cơ quan chính phủ trung ương Trung cộng, chính quyền địa phương và các viện nghiên cứu.

Trong khi ngày càng nhiều quốc gia đang bày tỏ sự tức giận và thất vọng về cách xử lý dịch bệnh bùng phát đầy cẩu thả của Bắc Kinh, bị làm cho trầm trọng hơn bởi việc che giấu trên diện rộng, phản ứng dữ dội của dư luận cũng đang chống lại những nỗ lực của họ trong việc đánh bóng bản thân là một nhà lãnh đạo thế giới trong việc chống lại đại dịch.

Trong nỗ lực cải thiện hình ảnh của mình, Bắc Kinh đã gửi một loạt các chuyên gia và thiết bị y tế như khẩu trang và mặt nạ phòng độc đến các quốc gia nơi họ đang rất cần.

Nhưng các sản phẩm mà nó gửi đến thường bị lỗi, khiến các quốc gia không còn lựa chọn nào khác ngoài việc từ chối nhập các thiết bị đó. Hà Lan, Tây Ban Nha, Thổ Nhĩ Kỳ, Phần Lan, Anh và Ireland chỉ là một số các quốc gia gặp tình cảnh này.

“Các nguồn tin có thẩm quyền của Trung cộng tuyên bố rõ ràng rằng sự tổn thất và rối loạn kinh tế mà COVID-19 tạo ra mang lại cho Trung cộng cơ hội mở rộng sự thống trị của mình trên thị trường và chuỗi cung ứng toàn cầu, cả trong nền kinh tế thực và ảo“, theo báo cáo của Horizon. “Họ cũng nhấn mạnh rằng cuộc khủng hoảng hiện nay sẽ cho phép Bắc Kinh dập tắt những nỗ lực của Hoa Kỳ trong việc bảo vệ các hệ thống của mình cũng như hệ thống của các đồng minh khỏi Trung cộng”.

Theo The Epoch Times

(NTDVN.com 22.07.2020)