Inrasara

Văn Việt

1.6.2023

1. Nền văn học tự do là một nền văn học ở đó người viết có toàn quyền sáng tạo. Hắn đi xuống tận cùng nỗi cô đơn của sáng tạo: tầng cô đơn thứ ba. Cô đơn trước, trong khi viết, cô đơn cả sau khi tác phẩm đã ra đời.

Ngồi vào bàn giấy, hắn không để bị tên tuổi lớn nào đó ngáng đường trong tâm thế nhún nhường đáng thương hại. Không có Nguyễn Du hay Tolstoi, không có Kafka, Char hay Dostoievski. Trước và sau hắn là khoảng trắng mênh mông đầy bất trắc. Mình hắn cô độc đối diện với vấn đề cùng sự mù mờ của tác phẩm sắp hình thành.

Trước trang giấy (hay màn hình) trắng, hắn càng cô đơn hơn bao giờ. Kẻ sáng tạo vật lộn với cả đống ngôn từ dậy lên trong hắn đòi quyền có mặt. Chỉ ý tưởng, ngôn từ và cách thể hiện, mà không là gì khác ở đó. Hắn không bị ám ảnh bởi giọng nói mơ hồ nào đó: từ truyền thống xa xăm hay từ thực tế cuộc sống lù lù. Dao kéo kiểm duyệt hay dư luận xã hội; đảng phái chính trị hay tông phái tôn giáo; bằng hữu, con cái, sinh viên, thậm chí nhà phê bình nghĩ gì – mặc!

Cuối rốt, hắn cần giữ sự cô đơn khi tác phẩm ra đời. Nó đã xong. Nó thuộc về xã hội, và không còn là của mình nữa. Nó được khen ngợi, tốt. Còn nếu nó bị tấn công, cứ bỏ mặc nó tự bảo vệ chính nó, hắn cần độc hành lên đường cho công cuộc khai phá mới.

Nhà văn hôm nay, ai đã đủ cô đơn cho sáng tạo?

2. Sáng tạo văn chương là sáng tạo cô độc. Dẫu sao chính các trào lưu làm nên sự sôi động của một giai đoạn văn học. Cô độc, kẻ sáng tạo có thể đóng cửa viết; còn với một trào lưu thì cần đến một nhóm người cùng quan điểm và đồng chí hướng. Nhóm người đó cần diễn đàn độc lập: tạp chí, báo, website… Qua đó, trào lưu văn học kia tự do đăng các sáng tác, nghiên cứu, phê bình, thảo luận và tranh luận (với các tác giả, trào lưu khác)…

Một nền văn học tự do cần chấp nhận cho mọi trào lưu và mọi hệ mĩ học ra đời và tồn tại. Chúng ra đời, phát triển và cạnh tranh nhau trong không khí văn học lành mạnh. Cạnh tranh lành mạnh, chúng thúc đẩy và hỗ trợ nhau đồng phát triển, chứ không phải hạ bệ hay triệt tiêu nhau để giành phần độc quyền. Với văn học, nghệ thuật không gì tai hại hơn là thái độ áp chế hay độc quyền diễn đàn. Độc quyền sanh ỉ lại, ù lì, và nhàm chán.

Đi theo một trào lưu, trường phái không phải bầy đàn hay phe phái, mà ngược lại, nó thể hiện tinh thần khai phá mang tính mĩ học của nhóm người viết trẻ. Trên nền tảng đó, mỗi người thể hiện phong cách độc đáo của riêng mình. Có người theo đuổi đến cùng, có kẻ bỏ nửa chừng để tự vạch một lối đi riêng – không vấn đề. Chủ nghĩa siêu thực chẳng hạn, theo tinh thần “Tuyên ngôn siêu thực”, những Breton, Éluard, Aragon, Char, Soupault… tạo lập phong cách riêng, và họ đã làm nên sự nghiệp lớn.

3. Thế nhưng, tự do sáng tạo để làm gì, nếu nền văn học đó không nhận được sự tự do in ấn, xuất bản? Tác giả có thể tự do muốn viết gì viết, cả tự do post lên mạng, in photocopy tặng văn thi hữu, ôm bản thảo chạy ra nước ngoài, hoặc giả cứ chạy giấy phép in để bị thu hồi, hay thậm chí chịu tù tội. Hoặc, tác phẩm xong cứ cất trong ngăn kéo, sau đó kẻ sáng tạo tiếp tục dấn tới, chờ đợi thế hệ độc giả tương lai mơ hồ nào đó đón nhận.

Hỏi kẻ sáng tạo hôm nay, ai còn đủ tự tin và kiên nhẫn chờ đợi sự công nhận ở tương lai vời xa thăm thẳm đó? Và để làm gì, cái sự tự do chờ đợi đến kiếp sau kia?

Tác phẩm đương đại cần được in ra để độc giả (giấy, mạng) đương thời tự do đọc, thảo luận, phê phán. Qua cuộc cạnh tranh lành mạnh và sòng phẳng, trào lưu (hay tác phẩm, tác giả…) nào dở, kém và lạc hậu sẽ bị đào thải. Tương tác giữa tác giả và người đọc (trên báo chí, diễn đàn) tạo không khí sôi động cho một nền văn học, làm cho văn học thực sự sống. Không khí tự do kích thích kẻ sáng tạo khám phá, tìm tòi hướng về cái mới, mở.

4. Hỏi đâu là độc giả của nền văn học đó? Nền văn học lớn hòi hỏi bộ phận độc giả xứng đáng. Ở đó sinh viên Đại học là độc giả tiềm năng. Thế nhưng, nền giáo dục (khoa văn) hôm nay chuẩn bị gì cho họ? – Không gì cả! Triết học, mĩ học và các trào lưu văn học mới nhất trên trên thế giới, chúng ta không.

Triết học sinh viên đang học trong nhà trường là nền triết học Theo-ism: nghĩ theo, rồi sau này sẽ nói theo. Trong khi bước đi đầu tiên của một chương trình triết học đúng nghĩa là dạy cho sinh viên tinh thần phản biện, ta thì không! Không dám (không biết) phản biện thầy, nói chi phản biện xã hội.

Văn học, ta dạy gì? Không gì cả, ngoài các trào lưu đã lưu kho từ thế kỉ XIX: lãng mạn, hiện thực, tượng trưng, thỉnh thoảng có vài món siêu thực hay hiện thực huyền ảo, để làm dáng là chính. Nếu giáo sư nào chịu chơi, thì chêm vào vài món mới, để gọi là có hội nhập văn học thế giới. Vậy thôi.

Thiếu căn bản về các trào lưu lớn của nền văn học lớn trên thế giới, không rành các thao tác tiếp cận văn học mới, ra trường, các độc giả văn học tiềm năng này sẽ tiếp nhận sáng tác mới ra sao? Vẫn cứ thái độ bảo thủ, vẫn cứ lối đọc xưa cũ mà phán. Loại độc giả cụ non này nguy cơ kéo văn học trì trệ còn hơn cả thái độ bảo thủ của thế hệ trước đó. Bởi nó dễ lập lờ đánh lận.

Văn học Việt Nam về đâu?

5. Một nền văn học không thể nào tự đầy đủ cho nó. Nó cần biết đến thế giới bên ngoài, giao lưu và tương tác. Trở ngại ngôn ngữ đòi hỏi đến dịch thuật. Thế kỉ XIX trở về trước, dịch thuật đóng vai trò quan trọng trong việc thay đổi một đất nước, một vùng lãnh thổ. Không tiếp cận nền văn hóa khác (trong đó có văn học) thì không thể có cái mới. Đất nước mãi ở lại với cũ kĩ và lạc hậu.

Cả ở thời hậu hiện đại, dù ngoại ngữ đã thành quen thuộc trong vài bộ phận công chúng của nhiều đất nước, nhưng đại đa số vẫn không khả năng đọc nguyên tác, cho dù tiếng Anh phần nào đó trở thành ngôn ngữ quốc tế, và đại bộ phận tác phẩm, các công trình khoa học giá trị được diễn đạt qua ngôn ngữ này, công việc dịch thuật vẫn rất cần thiết. Cần thiết hơn bao giờ. Văn học cho dẫu không phải là bộ môn khoa học kĩ thuật, nó vẫn cần đến dịch thuật để độc giả bản địa có thể tiếp cận với các nền văn học tiên tiến khác. Không có dịch thuật, độc giả văn học mãi bám theo lối đọc cũ khi tiếp xúc với sáng tạo mới, qua đó động phản tinh thần cách tân và làm trì trệ nền văn học.

Dịch đa đề tài, đa hệ mĩ học, đa trào lưu, tác giả, tác phẩm để người đọc tùy gu mà chọn lựa. Với nghiên cứu cũng thế, nghiên cứu chủ đề lớn, đề tài quan trọng đã đành, ở các Đại học lớn trên thế giới, giáo sư còn khuyến khích sinh viên thám hiểm vào các đề tài xa lạ, ngoại vi, các đề tài tầm thường và vô vị tưởng không có gì đáng nghiên cứu. Nghiên cứu cả cái khác ta, cái chống ta, cái ta thù ghét.

6. Cuối cùng, một nền văn học lành mạnh không thể thiếu phê bình và tranh luận. Khi nhiều trào lưu mĩ học xuất hiện cùng lúc và cạnh tranh nhau, nỗ lực lôi cuốn bộ phận độc giả (cũ lẫn mới) về sáng tạo và lí thuyết của mình, thì không thể không xảy ra xung đột. Có xung đột mĩ học thì có tranh luận.

Không xung đột và tranh luận lớn, các cãi cọ qua lại chỉ như thứ gãi ngứa ngoài rìa mang tính cá nhân. Nền văn học trở nên đồng bộ và nhàm chán biết bao! Hãy thử tưởng tượng, nếu nền văn học Việt Nam đương đại không có làn gió mới từ ngoại biên thổi tới: không có văn chương mạng, không có hậu hiện đại và tân hình thức, không cả trào lưu văn chương nữ quyền… thì nó đìu hiu biết bao. Đó là văn học chính thống còn chưa chấp nhận chúng, nếu chấp nhận và chịu sự cạnh tranh và tranh luận sòng phẳng, văn học Việt Nam đương đại sẽ sôi động và lí thú hơn nhiều, chắc chắn thế!

Rồi hãy nhìn sang mĩ thuật.

Dấu hiệu chủ nghĩa hiện đại trong nghệ thuật manh nha từ Claude Monet, xuất phát từ một quan niệm. C. Monet cho rằng sự vật biến đổi theo ánh sáng và bị tác động bởi chuyển động nhanh. Năm 1863, bức họa Bữa ăn sáng trên cỏ của Édouard Manet “gây ra một cuộc tranh luận sôi nổi giữa những người bênh vực truyền thống kinh viện và các văn nghệ sĩ trẻ” (M. Fragonard, 1997). Gần mười năm sau, khi trưng bày bức Ấn tượng, rạng đông (1872), C. Monet đã gây sửng sốt cho giới thưởng ngoạn hội họa thời ấy. Bố cục thiếu rõ ràng, không còn sự cân xứng hòa hợp như người ta thường thấy ở các tác phẩm cổ điển, chỉ có cảnh vật mơ hồ chìm ngập giữa màu sắc chập chờn, u u minh minh. Họa sĩ không còn quan tâm đến đường nét cảnh vật mà chú trọng hiệu ứng quang học trên cảnh vật. Trường phái ấn tượng tạo bước ngoặc lớn trong thể hiện hiện thực, mở đường cho sự bùng nổ các trường phái hội hoạ hiện đại sau đó.

Năm 1877, rời bỏ ấn tượng, Paul Cézanne thách thức chính không gian của các nhà ấn tượng. Sự vật không còn thuần túy là đối tượng bị nhìn, ở đó còn có cả người nhìn. Tương tác qua lại tạo hiệu quả của sự tri giác thực tại một cách đặc thù. Nhưng phải đợi đến năm 1907, khi Những cô gái ở Avignon của Pablo Picasso xuất hiện, chủ nghĩa hiện đại mới ghi dấu ấn đậm nét trong lịch sử mĩ thuật. Việc bóp méo hình dạng tạo sự chuyển hướng quyết định, như một tuyên ngôn về hình thức hoàn toàn mới: một phản biểu đạt mới. Từ đó, liên tục xảy ra cách mạng lật đổ. Trường phái đánh đổ trường phái. Cuộc cách mạng còn xảy ra trong mỗi nghệ sĩ nữa. Cùng với Georges Braque, P. Picasso giai đoạn thứ hai mở cuộc tấn công vào mục tiêu của P. Cézanne. Hình dạng méo mó và góc cạnh bị đơn giản hóa thành những khối và mặt phẳng hình học. Nhiều điểm nhìn đồng thời trong một bức họa, các chuyển động đan cài vào nhau; ở đó ta thấy sự tổng hợp giữa không gian và hình thể. Cách mạng lập thể là một chấn động mạnh (M. Fragonard). Nó quy tụ nhiều anh tài, làm mưa làm gió.

Vẫn còn là chưa đủ. Năm 1918, Tuyên ngôn Dada ra đời, các nghệ sĩ Dada không còn quan niệm nữa! Với khẩu hiệu: Phá huỷ cũng chính là sáng tạo, “Dada tồn tại vì tự nhiên và chống lại nghệ thuật giả tạo” (Jean Arp). Có thể nói, Dada khai mào cho chủ nghĩa tự động (automatism), nghệ sĩ ném bỏ mọi quy tắc truyền thống. Thế nhưng chủ trương vô chính phủ, chống lại mọi thứ giá trị của phong trào này bị phản đối bởi những người trong cuộc: André Breton cắt đứt quan hệ với Dada và tuyên xưng một trường phái mới: 1924, Tuyên ngôn Siêu thực ra đời, nỗ lực khám phá cái vô hình đằng sau cái hữu hình giả tạo. Hầu như tất cả để chống lại sự hời hợt đầy giả tạo lan tràn trong nghệ thuật lẫn cuộc sống. Marcel Duchamp không còn “nặn” tượng hay “vẽ” tranh nữa; ông dùng ngay vật có sẵn, tước bỏ công dụng của chúng, mang chúng vào phòng trưng bày. Thế là tác phẩm nghệ thuật ra đời. Giá đựng chai (1914) và Bồn tiểu (1917) là rất tiêu biểu.

Rồi Daniel Buren xuất hiện, đặt dấu hỏi về chính chiến tích oanh liệt của M. Duchamp: nơi chốn trưng bày tác phẩm có phải là đặc quyền của phòng triển lãm? Tại sao không là khoảng không gian rộng hơn: rạp hát, quán cà phê hay công viên? Và cuối cùng, chủ nghĩa hậu hiện đại lại mở cuộc công phá mới, khác nữa. Bao nhiêu quan điểm, bấy nhiêu trào lưu chừng chưa đủ. Chủ nghĩa Tân-Dada, Nghệ thuật sắp đặt, Trình diễn, Video Art hay Đa phương tiện,… cấp tập ra đời ở phương Tây.

Thử nghiệm tiếp nối thử nghiệm! Cái mới luôn kêu đòi cái mới hơn, chen vai thích cánh, cạnh tranh nhau hay xô ngã cái mới trước đó, hình thành bao làn sóng sáng tạo dồn dập, sôi động vô cùng lí thú. Chỉ cần đặt một dấu hỏi đúng hay thay đổi một mệnh đề là nghệ sĩ có thể đánh đổ hoặc chuyển hướng một kĩ thuật thể hiện, thậm chí cả một thi pháp, một hệ mĩ học. Chúng đòi hỏi nhà nghệ sĩ/người thưởng thức nghệ thuật thay đổi lề thói tư duy và có khi – thay đổi cả thái độ sống(*).

Mà cần gì phải nói đến thơ văn, nghệ thuật, là những thứ vốn xa xỉ, mơ hồ, khó đoán biết, khó thuyết phục. Ví như điện và các tiện ích của điện, ngày nay không người Việt nào còn nghi ngờ khả năng của nó. Nhưng thời Pháp thuộc, Nguyễn Trường Tộ qua Pháp nhìn thấy bóng điện, về tâu trình với triều đình nhà Nguyễn, thì bị cho đó là trò ma quỷ, xém bị chém đầu.

Với một nước đang phát triển như Việt Nam, xài đồ nghĩa địa, hàng si-đa là điều khó tránh khỏi. Các thứ cũ người mới ta ấy lại đáp ứng kịp thời nhu cầu của số đông, và cho ta kinh nghiệm tốt để xài hàng mới.

(*) Xem thêm: Inrasara, “Khủng hoảng như là dấu hiệu tốt lành”, Tham luận Hội thảo khoa học 20 năm mỹ thuật đổi mới 1986-2006 tại Hà Nội, tháng 4.2007.