„Thành công của NATO không chỉ bắt nguồn từ sự phát triển và triển khai các lực lượng quân sự tích hợp có năng lực cao, mà còn từ ý chí chính trị và sự sẵn sàng của Liên minh trong việc sử dụng các lực lượng đó trong chiến đấu… 

NATO nên có tai, mắt ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương và sẵn sàng phản ứng với tình huống bất ngờ ở khu vực này bằng cách hỗ trợ các nỗ lực quân sự của Hoa Kỳ tại đó và lấp đầy các khoảng trống lực lượng có thể có của Hoa Kỳ ở khu vực Châu Âu – Đại Tây Dương. „

 

 Vĩnh An

NATO có một thành tích vẻ vang trong việc ngăn chặn Chiến tranh Lạnh với Liên Xô khi đó trở thành một cuộc chiến tranh toàn diện, công khai. Được thành lập vào ngày 4 tháng 4 năm 1949, NATO khi đó chỉ có 12 thành viên và tồ chức này đã kiềm chế Liên Xô theo quan niệm ban đầu của nhà ngoại giao kỳ cựu Hoa Kỳ George Kennan: NATO đã thành công về việc ngăn chặn sự bành trướng quân sự hơn nữa của Liên Xô ở châu Âu bằng cách cung cấp một lá chắn quân sự mà đằng sau đó các nước Tây Âu có thể phát triển các hệ thống kinh tế và chính trị thành công.

 

Có thể nói NATO đã thực hiện được mục tiêu hạn chế này là ngăn chặn sự bành trướng của Liên Xô ở Tây Âu. Đây là một câu chuyện thành công lớn, có thể là vì NATO, mặc dù mục tiêu công khai của mình là bảo vệ và thúc đẩy nền dân chủ, đã không quá sức khi chiến đấu với các cuộc chiến của các thành viên, bao gồm cả cuộc chiến của Hoa Kỳ, ở những nơi khác ngoài Tây Âu. NATO đã không chiến đấu với các cuộc chiến thuộc địa của các thành viên ở Châu Á và Châu Phi. NATO cũng đã không tham gia vào cuộc chiến tranh của Hoa Kỳ ở Đông Dương và các hoạt động chống Cộng Sản khác được Mỹ hậu thuẫn trên khắp thế giới. Một số người cho rằng khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, NATO đã mất đi lý lẽ tồn tại của mình. Lập luận này có thể quá xa vời, sự thận trọng của NATO đã bốc hơi. Sự sụp đổ của Liên Xô được coi là chiến thắng vô điều kiện của phương Tây.

 

Thành công của NATO không chỉ bắt nguồn từ sự phát triển và triển khai các lực lượng quân sự tích hợp có năng lực cao, mà còn từ ý chí chính trị và sự sẵn sàng của Liên minh trong việc sử dụng các lực lượng đó trong chiến đấu. Không nơi nào điều này được chứng minh rõ ràng hơn trong quá trình Liên minh quân sự này bảo vệ Tây Berlin, vùng đất Chiến tranh Lạnh của mình ở Đông Đức. Thế trận lực lượng mạnh mẽ và sự kiên quyết của Liên minh là những gì đã giúp Tây Berlin không bị các lực lượng của Khối Hiệp ước Warsaw chiếm giữ trong những giai đoạn căng thẳng và bất ổn nhất của thời đại đó.

Việc Ukraine mất đà trong việc phòng thủ trước các cuộc tấn công của Nga có nguồn gốc sâu xa từ khả năng của Nga trong việc ngăn chặn Liên minh cung cấp hỗ trợ mạnh mẽ hơn cho Ukraine. Một yếu tố quan trọng trong chiến lược của Putin là thực hiện cưỡng chế hạt nhân để ngăn chặn phương Tây can thiệp trực tiếp vào việc bảo vệ Ukraine. Những lời đe dọa về chiến tranh hạt nhân của Putin đã khiến Liên minh cam kết không đưa quân vào chiến trường và đe dọa các đồng minh hạn chế dòng thiết bị quân sự của họ đến Ukraine. Đây là kiểu ngoại giao nguyên tử.

 

Nga hiện tại đã không còn khả năng quân sự thông thường để đối trọng với NATO, Nga chỉ còn dựa vào kho vũ khí hạt nhân của mình, thực tế đã cho thấy sự mất cân bằng tuyệt đối về quyền lực giữa NATO và Nga. Tổng sản phẩm quốc nội của các quốc gia thành viên NATO là khoảng 51 ngàn tỷ USD, gấp hơn 20 lần GDP của Nga. Các thành viên NATO đã chi 1,3 nghìn tỷ USD cho quốc phòng vào năm 2023, gấp khoảng 10 lần so với chi tiêu của Nga, và thiết bị quân sự và nhân sự của Nga không thể sánh được với công nghệ và tính chuyên nghiệp mà các lực lượng của Liên minh NATO triển khai.

Tổng thống Pháp Macron đã nói trong hộp nghị rằng: cuộc chiến là mang tính sống còn đối với châu Âu. “Nếu Nga thắng cuộc chiến này, uy tín của châu Âu sẽ giảm xuống bằng không”, đồng thời nói thêm rằng cuộc chiến sau đó sẽ lan đến biên giới phía đông của NATO. Biden, trong bài phát biểu đã nói: “Nếu bất kỳ ai trong căn phòng này nghĩ rằng Putin sẽ dừng lại ở Ukraine, tôi bảo đảm với quý vị rằng ông ta sẽ không làm vậy”.

 

NATO vẫn nhấn mạnh sự đoàn kết và trẻ hóa của NATO. Họ đưa ra khái niệm cập nhật về phòng thủ và răn đe. Và họ sẽ triển khai các kế hoạch chiến tranh tinh vi vốn đã được hỗ trợ bởi chi tiêu quốc phòng tăng lên và các cuộc tập trận chuyên sâu và quy mô lớn hơn. Mới đây nhất Mỹ đã triển khai hệ thống tên lửa tầm trung và tầm xa cơ động cao có tầm bắn đến 2.500km ở Đức. Tất cả đều đúng… nhưng liệu hội nghị thượng đỉnh có rõ ràng xác nhận rằng NATO vẫn có thể dựa vào ý chí chính trị – sự kiên cường chính trị.

 

Hội nghị thượng đỉnh Washington tiếp tục tạo niềm tin vào uy tín của NATO, và do đó là tương lai của NATO, NATO đã phải hành động để đưa Ukraine vào con đường rõ ràng dẫn đến chiến thắng. Điều đó sẽ đòi hỏi một chiến lược gồm 5 yếu tố thiết yếu:

 

  • Các nhà lãnh đạo đồng minh phải xác nhận rõ ràng các mục tiêu chiến tranh của Ukraine —tức là tái thiết toàn bộ lãnh thổ trở lại biên giới năm 1991 của quốc gia này. Bất kỳ điều gì không đạt được mục tiêu đó đều là tín hiệu gây thất vọng cho Ukraine và khuyến khích Putin duy trì cuộc xâm lược của mình.

 

  • NATO không còn có thể do dự trong việc cung cấp cho Ukraine những vũ khí mà họ đang rất cần với tốc độ cần thiết và không có bất kỳ hạn chế nào đối với việc sử dụng chúng chống lại các mục tiêu quân sự hợp pháp ở Nga. Danh sách đó bao gồm máy bay chiến đấu, hỏa lực tầm xa, thiết bị rà phá bom mìn, xe tăng bổ sung và hệ thống phòng không và tên lửa.

 

  • Phải áp dụng các biện pháp trừng phạt thực sự toàn diện và hiệu quả đối với Nga. Chỉ riêng các lệnh trừng phạt nghiêm khắc có thể không ngăn chặn được cuộc xâm lược của Putin, nhưng việc áp đặt chúng và việc thực thi chúng sẽ làm suy yếu cỗ máy chiến tranh của Nga, phá hoại sự ổn định chính trị trong nước và đóng vai trò là sự phản ánh tích cực về quyết tâm của Liên minh.

 

  • Các đồng minh NATO phải tích cực tham gia với người dân Nga về thực tế tàn khốc của cuộc chiến này. Cộng đồng xuyên Đại Tây Dương không có chiến dịch thông tin chuyên sâu về vấn đề này vì sợ tạo ra ấn tượng rằng phương Tây có ý định thay đổi chế độ ở Nga. Trong khi đó, Nga và các đồng minh đã liên tục tăng cường các chiến dịch thông tin chống lại phương Tây.

 

  • Phải trao cho Ukraine một con đường rõ ràng để trở thành thành viên NATO. Việc trở thành thành viên NATO tại Ukraine không chỉ cần thiết để đảm bảo hòa bình sau chiến tranh. Nó còn cần thiết cho một chiến lược giành chiến thắng hiệu quả giúp Ukraine đạt được các mục tiêu chiến tranh của mình một cách nhanh chóng và dứt khoát. Việc Ukraine trở thành thành viên NATO và sự đảm bảo an ninh đi kèm là cách duy nhất để thuyết phục Putin rằng Ukraine đã bị khóa chặt vào NATO không thể đảo ngược và không còn dễ bị ông ta khuất phục nữa.

 

Cách NATO đóng góp vào việc phòng thủ Ukraine sẽ quyết định đáng kể kết quả của cuộc xâm lược của Nga. Nó cũng sẽ nói lên rất nhiều về sức mạnh của ý chí chính trị và sự kiên quyết của Liên minh. Sự kiên quyết đó là nền tảng cho khả năng ngăn chặn sự xâm lược của Nga trong tương lai.

 

Tuy nhiên để Ukraine làm thành viên NATO không phải là con đường dễ dàng. Theo các điều khoản của văn kiện thành lập NATO, Hiệp ước Washington năm 1949 , việc kết nạp thêm thành viên mới vào Liên minh dựa trên sự đồng thuận nhất trí của các thành viên hiện tại. Nguyên tắc đồng thuận này theo thời gian đã phát triển thành chuẩn mực chi phối cách NATO đưa ra quyết định. NATO lưu ý : Quyết định đồng thuận là một nguyên tắc cơ bản. Nó đã được chấp nhận là cơ sở duy nhất để ra quyết định trong NATO kể từ khi Liên minh được thành lập vào năm 1949. Tuy nhiên, thực tế là nguyên tắc này, ngoại trừ trường hợp gia nhập, không được ghi nhận trong bất kỳ văn kiện nào của Liên minh, tuy nhiên những điều bất thành văn này có thể không phù hợp với mục đích ngày nay với số lượng thành viên của NATO đã mở rộng hơn và đa dạng hơn trước rất nhiều. Quy trình ra quyết định cứng nhắc, dựa trên sự đồng thuận của NATO, được thiết kế cho một thế giới với một mối đe dọa đơn lẻ, không phù hợp với môi trường năng động, diễn ra nhanh chóng của một thế giới đa cực. Sự trỗi dậy của các cường quốc mới với các lợi ích cạnh tranh khiến việc tạo ra sự đồng thuận về một loạt các vấn đề an ninh trở nên khó khăn. Việc tập trung vào phòng thủ tập thể chống lại một đối thủ duy nhất không còn phản ánh các mối đe dọa đa dạng mà Liên minh này phải đối mặt. Cần có một cách tiếp cận linh hoạt hơn. Trái ngược với các cấu trúc cứng nhắc của các liên minh chính thức, các quan hệ đối tác làm việc linh hoạt về các vấn đề cụ thể mang lại hiệu quả nhanh hơn.

 

Những nỗ lực gần đây của Thổ Nhĩ Kỳ và Thủ tướng Hungary – Orban nhằm khai thác lợi ích để cho phép tiến trình gia nhập của Phần Lan và Thụy Điển cho thấy quy tắc đồng thuận có thể dễ dàng bị lạm dụng như thế nào bởi một nhà lãnh đạo tin rằng mình có thể thu được lợi thế chính trị từ việc làm như vậy. Như những ví dụ này cho thấy, NATO cần tìm cách giảm quyền phủ quyết của các biệt 1 vài thành viên trong Liên minh với cái giá phải trả là phòng thủ tập thể có thể bị huỷ bỏ đối với quốc gia của họ.

 

Phải hiểu rằng, người đứng đầu các lực lượng viễn chinh NATO luôn luôn là 1 tướng của Mỹ, vì Mỹ không muốn đặt các lược lượng quân sự của mình dưới sự điều động của 1 nước khác, và tướng Mỹ lãnh đạo quyền điều động các lực lượng NATO này nằm dưới quyền chỉ huy của tổng thống Mỹ.

 

Tổng thư ký NATO luôn luôn là 1 người Châu Âu, vì NATO đặt đại bản doanh tại Châu Âu. Chính vì vậy Mỹ muốn trao cho Châu Âu 1 chiếc áo hào nhoáng, có tiếng mà không có miếng.

 

Bộ chỉ huy tác chiến quân đồng minh là tổng tư lệnh chỉ huy tối cao các lực lượng đồng minh luôn luôn là 1 tướng cao cấp của Mỹ. Mỹ đã chi đến 3% GDP để nuôi toàn bộ NATO điều này là bất hợp lý.

 

Tại hội nghị thượng đỉnh Washington, các thành viên NATO thảo luận về cách tốt nhất để đưa ra quy trình bỏ phiếu đa số. Điều này sẽ khiến một quốc gia thành viên không thể phục vụ lợi ích của Nga bằng cách nhấn mạnh vào nguyên tắc đồng thuận, do đó làm tê liệt khả năng bảo vệ đồng minh khỏi sự xâm lược của Nga của Liên minh. Có nhiều cách tiếp cận vấn đề này và nhiều giải pháp thay thế khả thi, một số trong số đó đã được đưa ra thảo luận.

 

Đối với Trung cộng, NATO đã thẳng thắn tỏ thái độ cương quyết, họ đã nói rằng: Trung cộng không thể cho phép xảy ra cuộc chiến tranh lớn nhất ở châu Âu trong lịch sử gần đây mà không phải chịu hậu quả. Bất chấp lệnh cấm và hạn chế ngày càng gia tăng của phương Tây, các chất bán dẫn, máy công cụ và các bộ phận khác của Trung cộng đã trở nên quan trọng đối với ngành công nghiệp vũ khí của Nga, giúp Nga duy trì cuộc chiến của mình. Tuyên bố của NATO là tuyên bố mạnh mẽ nhất từ trước đến nay về Trung cộng, ngụ ý rằng 32 chính phủ thành viên sẽ tăng cường hành động chống lại Trung cộng trừ khi Trung cộng hạn chế xuất khẩu các thành phần và công nghệ có mục đích sử dụng kép sang Nga. khoảng 70 % lượng máy công cụ nhập khẩu của Nga và 90 % thiết bị vi điện tử của nước này đến từ Trung cộng.

 

Cấm vận Trung cộng không đơn giản đối với Châu Âu, không như Nga, Trung cộng là 1 đối trọng kinh tế đáng gườm. May sao sự hỗ trợ về mặt ngoại giao, kinh tế và quân sự từ các đối tác Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương như Úc, Nhật Bản, New Zealand và Hàn Quốc đã giúp củng cố khả năng phục hồi của Ukraine và duy trì các chuẩn mực toàn cầu. Nhìn rộng hơn, cuộc chiến đã gây ra một cuộc tranh luận gay gắt ở Mỹ về cách dung hòa nhu cầu hỗ trợ Ukraine trong khi vẫn tập trung vào mối đe dọa mà Trung cộng gây ra ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Cuộc tranh luận này tiếp tục đặt ra câu hỏi về những tác động của việc Hoa Kỳ ưu tiên cho các mối quan hệ xuyên Đại Tây Dương và an ninh châu Âu.

 

Mối quan tâm ngày càng tăng của NATO đối với Trung cộng đã phát triển trong bối cảnh Trung cộng được chỉ định là đối thủ cạnh tranh chiến lược dài hạn trong Chiến lược An ninh Quốc gia Hoa Kỳ năm 2017 và nhận thức ngày càng tăng của châu Âu về những tác động chiến lược của sự trỗi dậy của Trung cộng. Sự ủng hộ lớn hơn của châu Âu đối với các chính sách của Hoa Kỳ là chìa khóa để giải quyết hiệu quả các thách thức kinh tế, chính trị và chiến lược liên quan đến sự tăng trưởng của Trung cộng. Trong khi Mỹ đã nhấn mạnh nhiều vào việc thảo luận với EU và các quốc gia châu Âu riêng lẻ về cách tốt nhất để giải quyết các thách thức về địa kinh tế, công nghệ và ngoại giao liên quan đến sự trỗi dậy và hành vi ngông nghênh của Trung cộng, NATO cũng đã trở thành một động lực ngày càng quan trọng của hợp tác xuyên Đại Tây Dương về Trung cộng.

 

Có thể lập luận bằng phương pháp luận rằng chương trình nghị sự về Trung cộng của NATO có thể được chia thành ba cấp độ phân tích.

Cấp độ đầu tiên là toàn cầu hoá và liên quan đến quan niệm rằng Trung cộng là quốc gia duy nhất thực sự có thể đặt ra thách thức tính bền vững đối với hệ thống quốc tế. Ý tưởng này đóng vai trò nổi bật trong Chiến lược An ninh Quốc gia Hoa Kỳ năm 2022 và ngày càng được phản ánh trong các phát ngôn của NATO, mặc dù Trung cộng thường bị gộp chung với các nhân tố độc tài khác. Nhìn nhận theo góc độ này, Trung cộng tạo nên thách thức đối với một hệ thống quốc tế vẫn phần lớn phản ánh các giá trị và lợi ích xuyên Đại Tây Dương.

 

Cấp độ thứ hai liên quan đến thực tế là Trung cộng thách thức an ninh EU -Đại Tây Dương. Một trong những biểu hiện trực tiếp và liên quan đến thực tế là Trung cộng có năng lực hải quân, không gian mạng, không gian và năng lực phát triển các tên lửa liên lục địa ICBM vươn ra toàn cầu, với sự hiện diện quân sự của Trung cộng ở biển Baltic hoặc Địa Trung Hải thông qua các cuộc tập trận và chuyến thăm cảng, và với các cơ sở hạ tầng quan trọng của nước này ở châu Âu. Điều này liên quan đến khu vực trách nhiệm trực tiếp của NATO – và có thể ảnh hưởng đến hậu cần, khả năng di chuyển quân sự và thông tin liên lạc của Liên minh tại đó – nhưng cũng ảnh hưởng đến châu Phi và Trung Đông. Do đó, có một sự đồng thuận ngày càng tăng trong Liên minh rằng các năng lực và hoạt động toàn cầu của Trung cộng trong EU rộng lớn hơn phải được giám sát chặt chẽ. Đổi lại, sự ủng hộ ngầm của Trung cộng đối với cuộc tấn công của Nga vào cấu trúc địa chính trị châu Âu đặt ra một thách thức gián tiếp hơn đối với an ninh của EU nhưng có thể nói là có liên quan hơn đối với NATO.

 

Cấp độ phân tích thứ ba, ít ảnh hưởng trực tiếp đến NATO nhưng có thể nói là quan trọng nhất, liên quan đến thách thức của Trung cộng đối với cấu trúc an ninh Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Mặc dù NATO trước hết vẫn là một tổ chức an ninh 2 bờ Đại Tây Dương, nhưng ngày càng có nhiều sự công nhận rằng thách thức của Trung cộng đối với an ninh Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương vừa có liên quan về mặt hệ thống – xét đến vị trí trung tâm về kinh tế, công nghệ và chiến lược của Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương trong chính trị toàn cầu – và có hậu quả vô cùng to lớn đối với Hoa Kỳ, và do đó gián tiếp đối với NATO – xét đến vị trí trung tâm của Hoa Kỳ đối với an ninh EU-Atlantic.

 

Cuộc tranh luận của NATO về Trung cộng đã có 1 sự chia rẽ ở một mức độ phân chia lợi ích đáng kể, Tuy nhiên, sự công nhận ngày càng tăng rằng các chiều hướng “toàn cầu”, “Euro-Atlantic” và “liên chiến trường” đã đề cập ở trên hòa vào nhau đang nhường chỗ cho một cách tiếp cận thống nhất hơn của NATO về việc phải kìm chế đối với Trung cộng.

 

Việc răn đe Trung cộng ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương có thể gây sức ép lâu dài lên kế hoạch và nguồn lực quân sự của Hoa Kỳ – vốn là trọng tâm của an ninh Châu Âu – Đại Tây Dương. Mặc dù có thể không cần trụ sở của Đồng minh hoặc tài sản quân sự thường trực ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, điều này có nghĩa là NATO nên có tai, mắt ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương và sẵn sàng phản ứng với tình huống bất ngờ ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương bằng cách hỗ trợ các nỗ lực quân sự của Hoa Kỳ tại đó và lấp đầy các khoảng trống lực lượng có thể có của Hoa Kỳ ở khu vực Châu Âu – Đại Tây Dương. Điều này đòi hỏi phải có mối liên kết chặt chẽ hơn với các bộ chỉ huy chiến lược và chiến thuật cấp khu vực có liên quan đặc biệt là INDO-PACOM, với Nhật Bản và Úc với vai trò trung tâm của họ đối với khả năng răn đe ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương.

 

Giới tinh hoa chiến lược Mỹ cũng đang tranh luận liệu Mỹ có nên tập trung nhiều hơn vào an ninh châu Âu hay không thay vì sự trỗi dậy của Trung cộng và những thách thức an ninh phức tạp ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương? Mỹ cần trao cho Châu Âu nhiều quyền lực và tính tự quyết hơn để họ tự lo mặt nhận Châu Âu.

 

Vĩnh An

 

Datviet.com (07.2024)