Một người dân ở Hà Tĩnh bị bắt vì viết “cán bộ là lũ ăn cướp của dân” trên Facebook

 

Lại thêm một người bị bắt theo điều 331 vì phản đối chính quyền trên mạng xã hội.

Ông Phạm Viết Công là người mới nhất bị bắt vì chỉ trích nhà nước trên mạng xã hội. (Công an Hà Tĩnh)

 

Ông Phạm Viết Công, 68 tuổi, ở xã Đồng Lộc, tỉnh Hà Tĩnh vừa mới bị công an địa phương bắt giam dưới tội danh “lợi dụng các quyền tự do dân chủ”, vì sử dụng mạng xã hội để tố cáo quan chức địa phương.

Theo thông tin từ phía công an, ông Công đã đứng đơn thay cho các hộ dân có đất thuộc diện giải tỏa để phục vụ dự án đường cao tốc Bắc Nam để “gửi đơn khiếu nại, tố cáo, đòi bồi thường, hỗ trợ trong quá trình triển khai dự án”.

Ngoài ra ông Công cũng bị cáo buộc sử dụng tài khoản Facebook có tên ‘Cong Pham’ để “đăng tải các bài viết có nội dung vu khống, xúc phạm uy tín, bôi nhọ danh dự của các tổ chức Đảng, chính quyền và các đồng chí lãnh đạo các cấp”.

Tài khoản Facebook trên hiện vẫn có thể truy cập được, trong đó, vẫn còn tồn tại các nội dung tố cáo nhắm đến lãnh đạo phương.

Trong một bài đăng vào ngày 5 tháng 6, tài khoản này cáo buộc chủ tịch thị trấn Đồng Lộc và chủ tịch huyện Can Lộc (cũ) là “lũ lừa đảo ăn cướp của dân”, ngoài ra, bài đăng còn cáo buộc Bí thư Tỉnh Hà Tĩnh, ông Nguyễn Duy Lâm “bao che cho lũ ăn cướp”.

Về vấn đề khiếu nại, tố cáo liên quan đến giải phóng mặt bằng, tài khoản Cong Pham đã đăng tải nhiều nội dung cáo buộc lãnh đạo địa phương “cướp tiền đến bù đất nông nghiệp” của người dân địa phương.

Những bài đăng trên tài khoản Facebook này bị phía công an kết luận là đã “thu hút nhiều lượt xem, chia sẻ, bình luận” và “gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương.”

Tội ‘lợi dụng các quyền tự do dân chủ’ được quy định trong điều 331 của Bộ luật Hình sự. Người bị kết tội theo điều luật này phải đối diện với mức án tù lên đến 7 năm.

Các tổ chức nhân quyền quốc tế thường xuyên chỉ trích việc áp dụng điều luật này.

Ngày 1 tháng 4 năm 2025, tổ chức Theo dõi Nhân quyền đã công bố một bản báo cáo, trong đó cáo buộc nhà nước Việt Nam đã “lạm dụng” điều 331 để “bịt miệng những nhà bất đồng chính kiến và cả những người dân bình thường”.

 

RFA (15.07.2025)

 

 

 

 

Hà Nội bị LHQ chất vấn về quyền của người bản địa và về xuất khẩu lao động

Phiên rà soát của Ủy ban Nhân quyền LHQ với Việt Nam, ngày 8 Tháng Bảy 2025 (nguồn: UN Web TV).

 

Ngày 7 và 8 Tháng Bảy 2025 vừa qua, nhà nước Việt Nam đã bị Ủy ban Nhân quyền LHQ rà soát về Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị (International Covenant on Civil and Political Rights, viết tắt ICCPR).

Có gì đáng chú ý? Sau đây là vài quan sát và suy nghĩ riêng, với tư cách một người có mặt trực tiếp tại Geneva, Thụy Sỹ để tham dự phiên rà soát.

 

Cuộc họp giữa Ủy ban Nhân quyền và các nhóm Xã hội Dân sự (XHDS)

Ngày 7 Tháng Bảy 2025, trước khi vào đặt vấn đề và chất vấn phái đoàn nhà nước Việt Nam, Ủy ban Nhân quyền gặp mặt các tổ chức XHDS để nghe cập nhật và đặt thêm câu hỏi. Trước hết là buổi họp không chính thức với một vài tổ chức XHDS được chọn lọc, không có GONGO (“tổ chức phi chính phủ” do chính phủ lập ra). Ngoài BPSOS còn có sự hiện diện của một số cá nhân và tổ chức khác như Project88, Hawaii Institute for Human Rights, Khmers Kampuchea-Krom Federation, Vietnamese Committee on Human Rights, đại diện cho Thiền Am Bên Bờ Vũ Trụ, v.v.

Liền sau đó là buổi họp tư vấn mở rộng với sự tham gia của những tổ chức đã nộp báo cáo.

Vì ICCPR là công ước quan trọng nhất của LHQ và bao gồm tất cả những quyền căn bản nhất, các tổ chức XHDS có thể nói về nhiều khía cạnh, không lặp nhau. Riêng BPSOS nêu lên bốn vấn đề chính là: tự do tôn giáo, quyền người bản địa, tình trạng tra tấn trong nhà tù, và đàn áp xuyên quốc gia.

Đặc biệt buồn cười là hai bài phát biểu ca ngợi Việt Nam, một là từ đại diện một GONGO, hai là từ ông Frank Joyce (một nhà hoạt động cánh tả người Mỹ, trước đây từng tham gia phong trào phản chiến, chống Chiến tranh Việt Nam). Họ dự họp, phát biểu 3 phút ca tụng chính quyền Việt Nam, rồi mất hút. Sau đó không thấy tham dự phiên rà soát.

 

Quyền người bản địa

Vài thành viên khác nhau của Ủy ban Nhân quyền nhắc tới vấn đề quyền người bản địa, như người Thượng và người Khmer Krom: quyền gọi mình là người bản địa; quyền về đất đai, văn hóa, ngôn ngữ, tôn giáo; và những vấn đề khác như giấy tờ tùy thân, tự do đi lại. v.v. Đặc biệt Giáo sư Carlos Ramón Fernández Liesa hỏi nhiều lần, Việt Nam có phân biệt giữa quyền người bản địa và quyền các sắc tộc thiểu số không? Có công nhận người bản địa không?

Tại cả hai buổi họp trước đó, BPSOS đã nhấn mạnh nhà nước Việt Nam không công nhận người bản địa.

Từ đầu đến cuối, phái đoàn Việt Nam khẳng định tất cả mọi sắc tộc đều bình đẳng, luật pháp cấm phân biệt đối xử; “người thiểu số” có chế độ ưu đãi; “dân tộc thiểu số” được đóng góp ý kiến, được ứng cử và tham gia chính trị, được giữ “vị trí chủ chốt” trong chính quyền… Tuy nhiên, vì Giáo sư Fernández Liesa hỏi đi hỏi lại, hỏi tới hỏi lui, cuối cùng họ phải thừa nhận Việt Nam không công nhận khái niệm người bản địa.

 

Tự do tôn giáo

Ủy ban Nhân quyền chất vấn Việt Nam về việc đàn áp các cộng đồng người Thượng và người H’mông theo đạo Tin Lành, người Khmer Krom theo Phật giáo, đạo Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo, Ân Đàn Đại Đạo… Gắn với quyền tự do tôn giáo hay niềm tin là nhiều quyền khác như tự do ngôn luận, tự do đi lại, tự do hội họp và lập hội…

Họ đặc biệt nhắc tới trường hợp ông Y Krêc Byă, tháng 3 năm ngoái bị tuyên án 13 năm tù vì tội “Phá hoại chính sách đoàn kết.”

Như mọi khi, phái đoàn Việt Nam nói nhăng nói cuội, hoặc trả lời loanh quanh, hoặc không trả lời.

 

Việt Nam tiếp tục viện cớ “an ninh quốc gia”

Tất cả những ai theo dõi đều có thể thấy cách bao biện của phái đoàn nhà nước Việt Nam.

Nói Việt Nam có tự do ngôn luận, chỉ ngăn chặn hành vi xâm phạm “lợi ích nhà nước” và “an ninh quốc gia.”

Nói Việt Nam có tự do internet, không ngăn chặn trang web, chỉ xử lý những nội dung xâm phạm “an ninh quốc gia.”

Nói Việt Nam tôn trọng thủ tục tố tụng pháp lý, nhưng chỉ cho gặp luật sư sau quá trình điều tra trong những trường hợp liên quan tới “an ninh quốc gia.”

Nói Việt Nam tôn trọng quyền công dân và có quy định rõ ràng về thời gian tạm giam, nhưng có thể gia hạn thời gian tạm giam với những người bị điều tra về tội liên quan tới “an ninh quốc gia.”

Nói Việt Nam không hạn chế tự do đi lại của những người thuộc các nhóm “dân tộc thiểu số” hay tôn giáo, chỉ ngăn chặn xuất cảnh vì lý do “an ninh quốc gia.”

Có thể thấy trong con mắt của Đảng Cộng sản Việt Nam, chỉ cần dùng bốn chữ thần thánh “an ninh quốc gia” là mọi quyền tự do, mọi điều luật đều có thể quăng ngoài cửa sổ.

Ông Ngô Đức Thắng của Bộ Công an nói, theo luật mới, không chỉ nạn nhân buôn người mà những người đang được xác định là nạn nhân buôn người cũng sẽ nhận hỗ trợ từ nhà nước (nguồn: UN Web TV).

 

LHQ nêu vấn đề buôn người qua chương trình xuất khẩu lao động

Ủy ban Nhân quyền LHQ đặt câu hỏi về nạn buôn người ở Việt Nam. Đặc biệt, ông Imeru Tamerat Yigezu nêu vấn đề buôn người qua chương trình xuất khẩu lao động.

Đây là một vấn đề BPSOS đã vận động nhiều năm nay: nạn buôn bán người trầm trọng nhất ở Việt Nam không phải là những vụ “nhỏ lẻ”, như những đường dây ở Campuchia, mà trong chính hệ thống xuất khẩu lao động của nhà nước. BPSOS cũng luôn nhấn mạnh, chính phủ Việt Nam không bao giờ công nhận các nạn nhân trong chương trình xuất khẩu lao động là nạn nhân buôn người, vì thế không hỗ trợ họ và cũng không xử lý khiếu nại.

Phái đoàn Việt Nam chỉ trả lời chung chung là có quy định bảo vệ người lao động, có hệ thống đánh giá công ty tuyển dụng, có nghiêm cấm thu phí tuyển dụng lao động. Họ cũng nói đã tuyên truyền để người lao động đi theo kênh chính thống, nhưng điều đó tất nhiên không bác bỏ cáo buộc buôn bán người và bóc lột người lao động qua chính con đường chính thống.

 

Một số vấn đề khác

Giáo sư Yigezu đặt câu hỏi về vấn đề tạm giam và xét xử công bằng (nguồn: UN Web TV).

 

Ngoài ra, LHQ cũng đặt câu hỏi về Chỉ thị 24 và ảnh hưởng tới các quyền có trong ICCPR; vấn đề biến đổi khí hậu và ảnh hưởng tới cộng đồng người bản địa và sắc tộc thiểu số; án tử hình; khả năng độc lập của tòa án, thủ tục tố tụng; tình trạng tra tấn và điều kiện giam giữ trong nhà tù, khuynh hướng giam tù chính trị xa gia đình; nạn tham nhũng; các hạn chế trong đại dịch Covid; quyền người khuyết tật; quyền phụ nữ; quyền của cộng đồng LGBT; điều kiện trong các cơ sở cai nghiện bắt buộc; việc bắt giam nhà báo, nhà hoạt động, người bảo vệ nhân quyền, bắt giữ tùy tiện; bản án “trốn thuế” cho các nhà hoạt động môi trường; việc đe dọa luật sư và sách nhiễu gia đình tù chính trị; quyền riêng tư và cáo buộc Việt Nam dùng phần mềm gián điệp (spyware); và nhiều vấn đề khác.

Có thể thấy LHQ nắm rõ tình trạng chà đạp tự do, nhân quyền ở Việt Nam.

Một điểm đáng chú ý là LHQ vài lần đặt câu hỏi về mất tích cưỡng bức (enforced disappearance), một khái niệm để nói về việc nhà nước bắt bớ, giam giữ, hoặc bắt cóc một cá nhân và không cho ai biết về nơi ở hoặc chuyện gì sẽ xảy ra với người đó; nhưng đại diện nhà nước Việt Nam lại lấp liếm, nói về tội bắt cóc và giam người trái pháp luật chung chung. Rồi nói không có khiếu nại nào.

Ủy ban Nhân quyền có thái độ như thế nào với phái đoàn nhà nước Việt Nam?

Đây chỉ là nhận xét cá nhân, nhưng có thể thấy Ủy ban Nhân quyền LHQ bực bội với sự lấp liếm của phái đoàn Việt Nam. Vài lần, họ nói Việt Nam né tránh, không trả lời. Vài lần, họ phải lặp lại câu hỏi. Vài lần, họ nói không thỏa mãn với phát biểu của Việt Nam.

 

Hải Di Nguyễn 

Saigon Nhỏ (14.07.2025)

 

 

 

 

 

Việt Nam tiếp tục đàn áp các tôn giáo chân chính

 

TS Phan Quang Trọng

TS Phan Quang Trọng tóm lược theo Báo cáo Thường niên năm 2025 của Ủy hội Tự do Tôn giáo Quốc tế Hoa Kỳ (US Commission on International Religious Freedom – USCIRF):

Xin đọc báo cáo đầy đủ tại đây: http://bit.ly/4lLLPvX

 

Giới thiệu: Từ ngày Cộng sản Việt Nam nắm trọn quyền lãnh đạo, họ đã ra tay triệt hạ các tôn giáo chân chính và dựng lên các Tôn giáo Quốc doanh do Đảng Cộng sản đứng sau điều hành. Những tôn giáo chân chính còn lại luôn bị trù dập hay lũng đoạn, không phá được thì họ làm biến chất, đánh mất giá trị cao đẹp của một tôn giáo đích thực.

Tôn giáo thật – là tâm linh, là ý chí hướng thiện của xã hội. Tôn giáo giả – dần xói mòn những giá trị đạo đức, làm xã hội suy đồi, giả tạo. Một điểm quan trọng, cần duy trì các sinh hoạt tôn giáo chân chính, vì sinh hoạt này chứng tỏ một đất nước quan tâm đến các giá trị nhân quyền phổ quát, sinh hoạt tôn giáo lành mạnh chứng tỏ các quyền căn bản như quyền biểu đạt, hội họp, v…v, được tôn trọng. Đã 50 năm nay, từ cái ngày gọi là thống nhất đất nước, Việt Nam vẫn chưa đạt được mong đợi đó của thế giới. Hôm nay, chúng ta thử xem báo cáo thường niên năm 2025 của Ủy hội Tự do Tôn giáo Quốc tế viết gì về tình hình tôn giáo tại Việt Nam. Và Liên Hợp Quốc, Hoa Kỳ, cùng các quốc gia tự do đang tạo áp lực thế nào để cải thiện tình hình tôn giáo tại Việt Nam.

Trong quá khứ, Hoa Kỳ đã luôn đứng về phía những cá nhân và tổ chức, tự do khẳng định tôn giáo hoặc tín ngưỡng của mình, bao gồm quyền bảo vệ niềm tin và quyền thể hiện niềm tin đó thông qua việc thực hành, giảng dạy hoặc nghi thức tôn giáo theo niềm tin cá biệt. Chủ trương ủng hộ quyền Tự do tôn giáo mọi nơi trên thế giới của Hoa Kỳ vẫn là nền tảng của chính sách chung, không phân biệt hành pháp Hoa Kỳ là do đảng Dân chủ hay Cộng hòa lãnh đạo. Hành pháp mới của Hoa Kỳ sẽ làm gì trong lĩnh vực này?

 

Ủng hộ cho Tự do tôn giáo là truyền thống của dân tộc Hoa Kỳ, nhất là sau khi thông qua đạo luật Tự do tôn giáo năm 1998, để thành lập các tổ chức và cơ chế lập pháp. Hơn bao giờ hết, sự ủng hộ của Hoa Kỳ đối với quyền Tự do tôn giáo hoặc tín ngưỡng trên toàn cầu luôn là ưu tiên hàng đầu, vì vừa là lợi ích chiến lược quốc gia vừa là sự phản ánh bản sắc của dân tộc Hoa Kỳ.

Chính quyền của Tổng thống Donald Trump phải đối mặt với một môi trường quốc tế phức tạp, nên để phát huy thành công việc tập trung Tự do tôn giáo như một nền tảng của chính sách đối ngoại và lãnh đạo toàn cầu, Hoa Kỳ đã xác nhận cam kết này nhằm thúc đẩy Tự do tôn giáo và tín ngưỡng, và làm việc chung với các chính phủ có cùng chí hướng. Hoa Kỳ phải nhanh chóng bổ nhiệm một Đại sứ lưu động về Tự do tôn giáo Quốc tế như các hành pháp tiền nhiệm, vị Đại sứ này là người sẽ đưa ra các sáng kiến thông qua Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, nhằm giải quyết các mối quan ngại về Tự do tôn giáo trên toàn thế giới.

Quốc hội mới cũng phải ưu tiên tiếp tục công việc quan trọng, không bị cuốn vào trong tranh chấp đảng phái, nhằm thúc đẩy Tự do tôn giáo ở nước ngoài, như được đề nghị trong các khuyến nghị của Quốc hội trong báo cáo năm nay. Quốc hội phải nêu bật lại một số trường hợp – và thông qua luật để cung cấp đầy đủ nguồn lực và tài trợ cho chương trình giúp đỡ các cá nhân, gia đình và cộng đồng trên toàn thế giới đang phải đối mặt với sự đàn áp và các mối đe dọa khác vì tôn giáo hoặc tín ngưỡng của họ.

Báo cáo thường niên bắt đầu từ lúc có Đạo luật Tự do Tôn giáo Quốc tế (IRFA), USCIRF hay Ủy hội Tự do Tôn giáo Hoa Kỳ là một cơ quan cố vấn độc lập của chính phủ Hoa Kỳ, tách biệt với Bộ Ngoại giao. Tổ chức này giám sát và báo cáo về quyền Tự do tôn giáo ở nước ngoài và đưa ra các khuyến nghị về chính sách cho Tổng thống, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao và Quốc hội Hoa Kỳ. USCIRF đưa ra các khuyến nghị này dựa trên các điều khoản của luật cho phép và các tiêu chuẩn trong Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị và các văn bản quốc tế khác. Xin đi sơ lược về cách làm việc và mục đích của báo cáo quan trọng này:

Báo cáo thường niên năm 2025 của USCIRF, đánh giá các hành vi vi phạm và tiến trình Tự do tôn giáo ở 28 quốc gia trong năm dương lịch 2024, và đưa ra các khuyến nghị độc lập cho chính sách của Hoa Kỳ. Các phát hiện, khuyến nghị và phân tích chính trong báo cáo này dựa trên nghiên cứu trong một năm của USCIRF, bao gồm các phiên điều trần, cuộc họp, họp báo và chuyến đi điều tra của các Ủy viên. Báo cáo thường niên được thông qua bằng đa số phiếu bầu của các Ủy viên. IRFA quy định rõ ràng cho mỗi Ủy viên, quyền đưa vào báo cáo thường niên một tuyên bố với quan điểm cá nhân hoặc bất đồng quan điểm của riêng mình. Trọng tâm chính của báo cáo là hai nhóm Quốc gia:

– Thứ nhất, những quốc gia mà USCIRF khuyến nghị Bộ Ngoại giao nên chỉ định là Quốc gia cần quan tâm đặc biệt (CPC), dựa theo IRFA.

– Thứ hai, những quốc gia mà USCIRF khuyến nghị Bộ Ngoại giao nên đưa vào Danh sách theo dõi đặc biệt (SWL), dựa theo IRFA.

Báo cáo cũng nhắm đến các tổ chức không phải nhà nước nhưng đã vi phạm quyền Tự do tôn giáo trên toàn cầu. Sau hết, phần cuối cùng của báo cáo nêu bật các khuyến nghị chính của USCIRF mà chính phủ Hoa Kỳ đã thực hiện kể từ khi báo cáo thường niên trước đó của USCIRF.

Báo cáo Ủy hội năm nay nhắm đến 28 quốc gia vì họ nằm trong hai nhóm:

– Nhóm CPC (Country of Particular Concern), gọi tắt của Quốc gia cần quan tâm đặc biệt.

– Nhóm SWL (Special Watch List), gọi tắt của Danh sách theo dõi đặc biệt.

Ủy hội phân biệt và đánh giá khác nhau cho từng nhóm Quốc gia được phân loại như trên.

Trong 28 Quốc gia nằm trong báo cáo năm nay. Đơn giản thế này, CPC là các quốc gia dung túng cho các hành vi vi phạm Tự do tôn giáo “đặc biệt nghiêm trọng”, và SWL là các quốc gia tham gia hoặc dung túng cho các hành vi vi phạm tự do tôn giáo “nghiêm trọng”. Theo IRFA, các hành vi vi phạm Tự do tôn giáo đặc biệt nghiêm trọng có nghĩa là: “Các hành vi vi phạm có hệ thống, liên tục, và nghiêm trọng… bao gồm các hành vi vi phạm như sau:

(A) Tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ nhục;

(B) Giam giữ kéo dài mà không bị buộc tội;

(C) Khiến người mất tích bằng cách bắt cóc hoặc giam giữ bí mật những người đó; hoặc

(D) Các hành vi phủ nhận trắng trợn khác đối với quyền sống, quyền tự do hoặc quyền an toàn của người dân”.

Mặc dù luật không định nghĩa cụ thể các hành vi vi phạm nghiêm trọng quyền Tự do tôn giáo, nhưng khi đưa ra khuyến nghị SWL, USCIRF diễn giải luật này có nghĩa là các hành vi vi phạm đáp ứng hai trong ba yếu tố của tiêu chuẩn – (hệ thống, liên tục, và nghiêm trọng). Một điều chúng tôi xin nêu ra hôm nay là VIỆT NAM được đề nghị trong báo cáo năm 2025, là chính phủ Hoa Kỳ nên đưa họ vào danh sách CPC vì đã vi phạm cả ba yếu tố: HỆ THỐNG, LIÊN TỤC, và NGHIÊM TRỌNG.

Lý do Ủy hội đề nghị đưa Việt Nam vào danh sách Quốc gia cần quan tâm đặc biệt, vì năm 2024, Tự do tôn giáo ở Việt Nam vẫn còn kém và họ có cả 3 tiêu chuẩn là: đàn áp tôn giáo liên tục, hệ thống, và nghiêm trọng. Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) và nhà cầm quyền ngày càng tìm cách điều chỉnh và kiểm soát các vấn đề tôn giáo thông qua các tổ chức tôn giáo do nhà nước bảo trợ hay còn gọi là Tôn giáo Quốc doanh. Chính quyền đã bắt giữ, giam giữ, và tra tấn các thành viên và người ủng hộ các cộng đồng tôn giáo không được công nhận, tìm cách hoạt động độc lập tránh sự kiểm soát của nhà nước. Xin tóm tắt những vi phạm nghiêm trọng được ghi rõ trong báo cáo của Ủy hội năm 2025:

Báo cáo về Việt Nam khá dài, xin tóm tắt các vi phạm. Theo báo cáo, nhà cầm quyền Việt Nam tiếp tục sử dụng Luật Tín ngưỡng Tôn giáo năm 2018 và các Nghị định hướng dẫn thi hành để quản lý chặt chẽ các vấn đề tôn giáo. Vào tháng 3, Nghị định số 95/2023/ NĐ-CP đã có hiệu lực, thay thế hai Nghị định hướng dẫn thi hành trước đó – Nghị định 162 và Nghị định trừng phạt – vốn đã mang tính hạn chế và đàn áp, chẳng hạn như yêu cầu các nhóm tôn giáo phải báo cáo về những thay đổi nhân sự và địa điểm cho nhà nước. Nghị định mới này, cho phép nhà nước tiếp tục yêu cầu hồ sơ tài chính từ các tổ chức tôn giáo và đình chỉ các hoạt động tôn giáo, được diễn đạt mơ hồ và đem ra thi hành.

Tính đến tháng 12, Danh sách Nạn nhân Tự do Tôn giáo mà USCIRF có, gồm hơn 80 TÙ NHÂN mà Việt Nam đã trừng phạt vì các hoạt động tôn giáo hoặc ủng hộ Tự do tôn giáo. Như trong tháng 4, Việt Nam đã áp đặt thêm một cáo buộc đối với Cụ Lê Tùng Vân, người đứng đầu 92 tuổi của TABBVT, người đang thụ án vì bị cáo buộc “lạm dụng quyền tự do dân chủ” trong thời gian quản thúc tại gia do tuổi tác và sức khỏe yếu. Các bản án tương tự với các nhà hoạt động Tự do tôn giáo người Khmer Krom và người Thượng thiểu số.

Nói đến tập thể tín hữu Thiên Chúa giáo người thiểu số, người Thượng và người H’Mông theo đạo Thiên chúa ở miền Trung và Tây Bắc Cao nguyên vẫn đặc biệt dễ bị đàn áp, bao gồm giam giữ, bắt giữ, tra tấn và bị buộc từ bỏ đức tin. Chính quyền đàn áp các nhóm Phật giáo và Cao Đài không được công nhận cũng tiếp diễn trong suốt cả năm. Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Độc lập tiếp tục đối mặt với những trở ngại và sự quấy rối về các hoạt động tôn giáo của họ. Chúng tôi không nêu danh tánh nhưng quý vị có thể tìm đọc báo cáo năm 2025 của Ủy hội.

Đặc biệt, hiện có gần 2000 đồng bào tị nạn tại Thái Lan, đa số trong họ là người thiểu số, ra đi vì lý do tôn giáo. Chính quyền Việt Nam đã gây sức ép, buộc chính phủ Thái Lan dẫn độ nhà hoạt động Tự do tôn giáo người Thượng – anh Y Quynh Bdap, người có thể phải đối mặt với hình phạt nghiêm khắc nếu bị trả về Việt Nam. Các vận động đòi dẫn độ anh Y Quynh Bdap về Việt Nam đã gây nỗi sợ hãi, hoang mang cho các đồng bào tị nạn đã được Cao ủy Liên Hợp Quốc về người tị nạn (UNHCR) chứng nhận có đủ tư cách tị nạn.

Các vi phạm do Ủy hội đưa ra được tóm tắt đã nêu rõ những vi phạm nghiêm trọng, hệ thống và liên tục. Chính vì vậy, Ủy hội đã đánh giá Việt Nam là một trong số những quốc gia đàn áp tôn giáo một cách có chủ đích và được sự bảo trợ của nhà cầm quyền. Hoa Kỳ có thể làm gì để giúp cải thiện tình hình này tại Việt Nam và các đề nghị này của quốc hội có buộc nhà cầm quyền Việt Nam cần phải cải thiện?

 

KHUYẾN NGHỊ CHO CHÍNH PHỦ HOA KỲ

– Chỉ định Việt Nam là: “quốc gia đặc biệt đáng quan ngại” – hoặc CPC, vì đã tham gia vào các hành vi vi phạm Tự do tôn giáo có hệ thống, liên tục và nghiêm trọng theo định nghĩa của Đạo luật Tự do Tôn giáo Quốc tế (IRFA). Có lẽ đây là một đề nghị mạnh mẽ nhất đối với Việt Nam, một quốc gia đã tham gia ký kết các Công ước Quốc tế về Nhân quyền.

– Đánh giá thỏa thuận ràng buộc Hoa Kỳ – Việt Nam năm 2005 để xác định xem, việc Việt Nam vi phạm Tự do tôn giáo có vi phạm các điều khoản của thỏa thuận hay không và thực hiện các hành động thích hợp như liên kết việc xóa bỏ tình trạng kinh tế phi thị trường của Việt Nam với những cải thiện đáng kể về Tự do tôn giáo.

– Đòi và Hợp tác với nhà cầm quyền Việt Nam để sửa đổi Luật Tín ngưỡng và Tôn giáo năm 2018 và các Nghị định thực hiện để tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế, bao gồm cả việc đơn giản hóa thủ tục đăng ký và tùy chọn.

– Tạo điều kiện cho các cơ quan và nhân viên của Liên Hợp Quốc (LHQ) có liên quan, tiếp cận không bị hạn chế đến Việt Nam, đặc biệt là Tây Nguyên, để giám sát và điều tra các vi phạm Tự do tôn giáo trước khi bỏ phiếu vào cuối năm 2025 về tư cách thành viên Hội đồng Nhân quyền LHQ (UNHRC) năm 2026.

Ủy hội Tự do Tôn giáo Quốc tế Hoa Kỳ (USCIRF) có 2 khuyến nghị quan trọng:

– Vận động cải thiện Tự do tôn giáo ở Việt Nam, tập trung vào việc thả các tù nhân FoRB; và

– Tái khởi động các nỗ lực lập pháp để cải thiện Tự do tôn giáo ở Việt Nam, chẳng hạn như Đạo luật Nhân quyền Việt Nam. (H.R. 3172)

Về việc khả năng cải thiện, chúng tôi nhận xét là một quá trình nhiêu khê, đòi hỏi Ủy hội và đặc biệt là các Tổ chức Nhân quyền và đồng hương sinh sống tại các nước tự do phải tiếp tục giám sát và báo cáo các vi phạm cho Liên Hợp Quốc và chính phủ Hoa Kỳ. Những kiến nghị ảnh hưởng trực tiếp đến kinh tế của Việt Nam có nhiều cơ hội được cải thiện hơn, vì trong điều kiện khó khăn kinh tế hiện tại, Việt Nam buộc phải tuân thủ để tồn tại. Nhưng cũng đòi hỏi Hoa Kỳ, các Tổ chức Nhân quyền, và đồng hương tị nạn phải quyết tâm đóng góp vào tiến trình vận động của Ủy hội Tự do Tôn giáo Quốc tế.

 

Phan Quang Trọng tóm lược báo cáo năm 2025

VNTB  (09.07.2025)

 

 

  

 

Chuyện đời, chuyện tù của Phan Vân Bách

 

Phạm Thanh Nghiên

Thông tin ông Phan Vân Bách bị bắt với cáo buộc “Tuyên truyền chống nhà nước” chỉ hai ngày trước thềm năm mới Dương lịch 2024 đã khiến không ít người sững sờ. Người ta vẫn nghĩ, một người hiền lành, đã lui về ở ẩn, không còn dính dáng đến bất kỳ hoạt động tranh đấu cho nhân quyền nào như ông Bách, có lẽ sẽ được yên. Vụ bắt bớ diễn ra vào lúc các cơ quan ngoại giao nước ngoài bước vào kỳ nghỉ lễ cuối năm – một thời điểm được chọn lựa kỹ lưỡng để tránh mọi phản ứng tức thì từ quốc tế.

Phan Vân Bách sinh năm 1976, trong một gia đình trí thức nghèo ở Hà Nội với người cha là bác sĩ, mẹ là kiến trúc sư.

Năm lớp 10, mẹ ông đột ngột qua đời sau một cơn tai biến. Hai năm sau, cha ông mất trong một vụ tai nạn giao thông, khi đang trên đường đi xem điểm thi đại học cho Bách. Cánh cửa tương lai bỗng dưng đóng sập lại, đúng vào khoảnh khắc Bách tưởng như đã chạm tay vào nó.

Khi bạn bè cùng lứa vẫn được chở che bởi vòng tay cha mẹ, Bách đã một mình bươn chải, làm đủ nghề để sinh sống. Rồi ông gặp và kết hôn với Liễu, một cô gái chịu thương chịu khó bên Xóm Đạo. Họ sinh con trai đầu lòng vào năm 2001.

Hai năm sau, họ chuẩn bị đón hai bé gái song sinh với một niềm hạnh phúc vô bờ bến. Thế nhưng, giữa cái thời mà mỗi mũi tiêm đều gắn liền với chiếc phong bì âm thầm trao tay, Bách chẳng biết thủ tục “đầu tiên” đó. Khi thấy vợ đau đớn trong phòng chờ, anh chỉ biết cuống quýt hỏi bác sỹ, rồi nhận về những lời gắt gỏng, lạnh lùng “Nếu có chuyện gì thì xử lý sau”.

Khi người mẹ kiệt sức sau khi sinh bé đầu, đứa trẻ thứ hai bị ngạt trong bụng. Bác sĩ vội vàng dùng forceps – chiếc kẹp kim loại – để kéo bé ra. Cú “xử lý” ấy đã biến một thai nhi khỏe mạnh thành một đứa trẻ bại não ngay khoảnh khắc chào đời.

Suốt chín năm ròng, vợ chồng ông bế con lê la khắp các bệnh viện, từ Tây y đến Đông y, ôm hy vọng mong manh về một phép màu. Nhưng dù thương con đứt ruột, họ cũng phải buông tay, chấp nhận sự thật với nỗi buồn tủi và bất lực đến tận cùng.

Năm 2019, cô bé kết thúc cuộc đời sau 16 năm nằm trên giường bệnh. “Con bé không biết gì cả, nhưng không hoàn toàn là sống thực vật. Các ngón tay, ngón chân vẫn có phản ứng khi gặp cơn đau quá mức chịu đựng. Nếu sống thực vật hẳn, có lẽ còn đỡ tội. Đằng này…”, một người thân kể lại trong tang lễ của bé.

Năm 2011, Phan Vân Bách chuyển sang lái taxi, một công việc giúp ông hiểu hơn về thực trạng xã hội. Ông nhận ra, một người không làm nổi, nhưng nhiều người góp sức, có thể thay đổi được vận mệnh của đất nước. Bách không muốn sẽ còn những đứa trẻ khác bị tàn phế như con gái mình, chỉ vì cha mẹ chúng không biết “cách”, hoặc không có tiền đút lót cho bệnh viện.

Phan Vân Bách bắt đầu các hoạt động của mình bằng việc tham gia biểu tình ôn hòa chống Tàu cộng xâm lược, bảo vệ môi trường, dân sinh.

Từ năm 2017, ông tham gia kênh YouTube CHTV (Chấn Hưng TV) – một kênh truyền thông độc lập do ông Vũ Quang Thuận sáng lập, chuyên phân tích các vấn đề kinh tế – xã hội của Việt Nam.

Giống như nhiều người phản biện khác, Bách bị công an theo dõi, sách nhiễu, khủng bố, bị thẩm vấn và đe dọa. Dù cuộc đời nhiều đau khổ, Bách vẫn luôn tỏ ra lạc quan, đôi khi hài hước, hóm hỉnh đến gây cười. Ông tự gọi mình là “Đảng trưởng Đảng Mắm Tôm”, giễu nhại sự kiện ông bị dư luận viên ném mắm tôm, phân người và xác súc vật chết vào nhà.

Năm 2020, dưới sức ép nặng nề từ nhà cầm quyền, Bách buộc phải tuyên bố từ bỏ mọi hoạt động tranh đấu. Nhưng ba năm sau, ông vẫn bị bắt – như một lời nhắc nhở rằng, trong chế độ này, rút lui không có nghĩa là được buông tha.

Chế độ lao tù tàn bạo đến mức chỉ sau vài tháng bị giam giữ, Phan Vân Bách đã sụt 27kg, đi đứng xiêu vẹo vì chứng tiêu chảy kéo dài không được chữa trị. Vợ ông kể lại với một người bạn rằng, bà vô cùng choáng váng và gần như “không nhận ra chồng” trong cuộc gặp đầu tiên, khi ông bị giam ở Hỏa Lò. Thế nhưng, một điều lạ lùng đã xảy ra. Gần đến phiên tòa xét xử vào tháng 9/2024, bệnh tình của ông đột ngột thuyên giảm. Từ hàng chục lần tiêu chảy mỗi ngày, giảm xuống chỉ còn vài lần, đủ để ông có thể đứng suốt hai tiếng đồng hồ, làm “đạo cụ” cho một phiên xử được dàn dựng gọn ghẽ. Rồi ông bị tuyên án 6 năm tù, được đưa trở lại nhà tù, tiếp tục những tháng năm bị đọa đày cả thể xác lẫn tinh thần.

Ít ngày sau, ông Bách bị chuyển từ Hỏa Lò đến Trại 5 – Thanh Hóa, khi trời còn chưa sáng. Cai tù luôn miệng hối thúc và ông chỉ kịp vơ vội vài vật dụng. Bà Liễu chỉ biết chồng bị chuyển trại khi đến Hỏa Lò tiếp tế.

Mỗi lần mẹ con bà đi thăm chồng là một hành trình gian truân, và lần nào cũng trở về với lo âu. Trại 5 nằm giữa đồi núi, mùa hè nóng như thiêu, mùa đông lạnh cắt thịt. Ông Bách và hai bạn tù bị nhốt trong một buồng giam kín mít như hòm sắt, không cửa thông gió, không được ra ngoài.

Để sống sót giữa cái nóng khủng khiếp, họ phải liên tục tạt nước lên tường, xuống nền xi măng. Nước vừa tạt vào đã sủi bọt, hơi nóng phả rát mặt người. Phải đợi đến 2, 3 giờ sáng khi cái nóng dịu đi, người tù mới chợp mắt được. Nhưng chưa đến 5 giờ sáng, cái nóng lại tràn vào thiêu đốt mọi ngóc ngách trong trại tù. Ông Bách và bạn tù nhiều lần yêu cầu mở cửa buồng, nhưng luôn bị từ chối.

Với nhà cầm quyền, tù nhân chính trị là kẻ thù phải bị hủy diệt.

Kẻ thù thì không có quyền có không khí để thở.

Chỉ mới 19 tháng bị giam cầm, Phan Vân Bách đã rụng gần chục chiếc răng, tai điếc nặng, bệnh tiêu chảy và ghẻ lở hành hạ suốt ngày đêm. Khi tôi viết những dòng này, ông đã mòn mỏi bước sang ngày thứ 7 của cuộc tuyệt thực, để giữ lại phẩm giá, lòng kiêu hãnh và khí phách của một chiến sĩ dân chủ.

Cuộc đời đau khổ của Phan Vân Bách, hay những cái chết oan khiên của Huỳnh Anh Trí, Đinh Đăng Định, Đỗ Công Đương, Đào Quang Thực, Đinh Diêm, Phan Văn Thu, Huỳnh Hữu Đạt… có thể khiến nhiều người sợ hãi. Nhưng chính những con người ấy, bằng sự tận hiến trọn đời cho quê hương, đã nhóm lên ánh sáng soi đường cho niềm hy vọng mang tên Việt Nam.

 

Facebook Phạm Thanh Nghiên (09.07.2025)

 

 

 

 

 

VCHR & FIDH lên án những vi phạm nghiêm trọng ICCPR tại Việt Nam trước Liên Hiệp Quốc

Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam

 

 GENEVE, ngày 7 tháng 7 năm 2025 (VCHR) – Tại khóa họp lần thứ 144 của Uỷ ban Nhân quyền Liên Hiệp Quốc (LHQ) tại Genève, các chuyên gia LHQ xem xét Phúc trình về Công ước Quốc tế về Các Quyền Dân sự và Chính trị (ICCPR) lần thứ 4 của Việt Nam. Nhân khoá họp xem xét này, bà Ỷ Lan Penelope Faulkner, Chủ tịch Uỷ ban Bảo vệ Quyền Làm Người Việt Nam (VCHR), công bố Phúc trình Phản biện chung của VCHR và Liên Đoàn Quốc tế Nhân quyền (FIDH), ghi lại những vi phạm các quyền tự do cơ bản và việc Việt Nam không tuân thủ những cam kết tôn trọng các quyền tự do dân sự và chính trị được xác định trong ICCPR.

Đây là một trong những Công ước quan trọng nhất của LHQ. Mặc dù Việt Nam tham gia ký kết Công ước này từ năm 1982, và theo nguyên tắc phải phúc trình mỗi 4-5 năm trước Uỷ ban Nhân quyền LHQ, nhưng sau 43 năm ký kết, đây mới chỉ là lần thứ 4 Việt Nam đến phúc trình.

Sáng nay, điều trần trước 18 Chuyên gia thuộc Uỷ ban Nhân quyền LHQ, bà Ỷ Lan Penelope Faulkner đã bày tỏ sự thất vọng sâu sắc với báo cáo của Việt Nam do Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh và đoàn đại biểu gồm 24 quan chức từ Việt Nam trình bày:

 

“Báo cáo của Việt Nam soạn đúng theo kiểu «Vũ Như Cẫn-vẫn như cũ». Nó chứa một danh sách dài đặc các luật lệ, nghị định và quy định được thông qua sau lần báo cáo trước, với rất ít hoặc không có thông tin gì về việc thực hiện chúng”, bà nói. “Nó phủ nhận hoàn toàn những lo ngại của LHQ về tra tấn, điều kiện nhà tù vô nhân đạo và giam giữ tùy tiện, và tuyên bố trắng trợn rằng “không có tù nhân lương tâm nào ở Việt Nam”. Tệ hơn nữa, nó cung cấp thông tin sai lệch. Trả lời các câu hỏi của LHQ về những người bảo vệ quyền môi trường bị giam giữ, Việt Nam cho biết tất cả họ đã được trả tự do. Đây là một lời láo phét. Luật sư Đặng Đình Bách đang thụ án năm năm tù trong điều kiện cực kỳ khắc nghiệt tại Nhà tù số 6 khét tiếng ở Nghệ An”, Faulkner nói.

 

Mặc dù có nghĩa vụ bảo vệ các quyền được ghi nhận trong ICCPR, Việt Nam vẫn tiếp tục đàn áp xã hội dân sự và ban hành các điều luật để hạn chế việc thực hiện các quyền dân sự và chính trị. Đàn áp chính trị được “hợp pháp hóa” bằng các điều khoản “an ninh quốc gia” trong Bộ luật Hình sự, đặc biệt là Điều 109 về “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”; Điều 117 về “làm, tàng trữ, phát tán thông tin, tài liệu, vật phẩm chống lại Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”; và Điều 331 về “lợi dụng các quyền tự do dân chủ để xâm phạm lợi ích của nhà nước”.

“Các điều luật mơ hồ này trong thực tế chỉ là đồ mã trang trí bên ngoài để đàn áp nhân quyền. Nhà cầm quyền Hà Nội không phân biệt đâu là hành xử bạo động và đâu là hành xử quyền tự do ngôn luận, nên biến các đòi hỏi nhân quyền ôn hoà thành tội phạm” bà Ỷ Lan Faulkner nói với Ủy ban. Hầu như tất cả các luật tại Việt Nam đều có các điều khoản hạn chế nhân quyền với lý do “phá hoại an ninh quốc gia” hoặc “đe dọa lợi ích của nhà nước”, trái ngược với các quyền được đảm bảo trong ICCPR.

 

Dưới chiêu bài này, Việt Nam đang tăng cường bắt giữ những người bảo vệ nhân quyền, blogger, tín đồ tôn giáo, nhà hoạt động xã hội dân sự và tất cả những ai chỉ trích chính phủ. Trong một cuộc đàn áp dữ dội chưa từng có đối với quyền tự do ngôn luận từ tháng 1 năm 2019 đến tháng 3 năm 2025, ít nhất 209 người, kể cả 35 phụ nữ đã bị bắt và ít nhất 177 người, kể cả 28 phụ nữ đã bị kết án tù lên tới 15 năm. Các cáo buộc có động cơ chính trị về “trốn thuế” và “tiết lộ bí mật nhà nước” cũng đã được sử dụng để truy tố các nhà lãnh đạo về biến đổi khí hậu và những người bảo vệ quyền lao động.

 

Các phiên tòa bất công, từ chối có hệ thống quyền bào chữa hợp pháp, điều kiện giam giữ xuống cấp và ngược đãi tù nhân là chuyện thường ngày ở Việt Nam, vi phạm Điều 14 của ICCPR. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 cho phép giam giữ trước khi xét xử hầu như không giới hạn, giam giữ biệt lập kéo dài và xét xử bí mật đối với những người bị tình nghi phạm tội “an ninh quốc gia”.

 

Những tù nhân phản đối điều kiện giam giữ phải chịu các biện pháp kỷ luật bao gồm xiềng xích và biệt giam, thậm chí có nguy cơ bị truy tố thêm. Vào tháng 5 năm 2025, nhà hoạt động vì quyền đất đai Trịnh Bá Phương, người đang thụ án 10 năm tù theo Điều 177 của Bộ luật Hình sự về tội danh tuyên truyền chống nhà nước, đã bị khởi tố thêm lần thứ hai, cũng theo Điều 117, vì cai ngục tìm thấy tài liệu trong phòng giam của ông phản đối chế độ giam giữ hà khác, với dòng chữ ông viết “đả đảo cộng sản”.

Nghị định 121 về Luật sư, có hiệu lực vào tháng 6 năm 2025, làm suy yếu nghiêm trọng quyền được bảo vệ tư pháp. Nghị định này đã chuyển quyền cấp, gia hạn và thu hồi giấy phép hành nghề luật sư từ Bộ Tư Pháp sang Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh. Điều này có thể bị các quan chức địa phương lợi dụng để đe dọa, áp lực các luật sư, và rút giấy phép hành nghề các luật sư bảo hộ cho những ai chỉ trích nhà nước, đặc biệt các nhà ly khai hay bảo vệ nhân quyền.

Việc sử dụng án tử hình đang gia tăng, mặc dù số lượng các tội danh tử hình đã giảm. Điều kiện giam giữ tử tù thật vô nhân đạo. Các tử tù bị giam giữ bằng xiềng xích, chỉ được tháo ra trong 15 phút mỗi ngày. Nhiều tử tù đã chờ đợi ngày hành quyết trong hơn 15 năm vì Tổng thống “quá bận” để ký lệnh hành quyết.

Bên cạnh đàn áp về thể chất, Việt Nam sử dụng luật pháp để hạn chế quyền con người và thu hẹp không gian xã hội dân sự. “Chỉ thị 24” của Đảng Cộng sản xác định sự phát triển của xã hội dân sự và các công đoàn độc lập là mối đe dọa chính. Nhiều quy định mới đã được ban hành để hạn chế khả năng tiếp cận nguồn tài trợ nước ngoài của xã hội dân sự và thu hẹp phạm vi hoạt động của họ. Đáng lo ngại nhất là Nghị định 126/2024 về Hiệp Hội, được VCHR và FIDH mô tả là “một sự thụt lùi nghiêm trọng trong việc bảo vệ quyền tự do lập hội tại Việt Nam”. Nghị định này trao cho nhà nước các quyền hạn rộng rãi để kiểm soát, phủ quyết và đình chỉ các hội đoàn, đồng thời buộc họ phải “tuân thủ các chính sách của Đảng”  “tuyên truyền và phổ biến các chủ trương của Đảng”, vi phạm Điều 19 của ICCPR về quyền tự do lập hội.

Tự do ngôn luận và báo chí, cả trực tuyến và ngoại tuyến, đều bị hạn chế nghiêm trọng. Không có cơ quan truyền thông độc lập nào ở Việt Nam. Ngay cả báo chí do nhà nước kiểm soát cũng phải chịu sự kiểm duyệt theo “Kế hoạch 2025” của chính phủ, trong đó cấm các phương tiện truyền thông “đào sâu vào các vấn đề chính trị và đưa tin về các hiện tượng tiêu cực”. Các nhà báo đăng tin tức bị coi là “phủ nhận thành tựu cách mạng” hoặc “xúc phạm các anh hùng dân tộc” có nguy cơ bị phạt tiền và bỏ tù.

VCHR và FIDH cũng bày tỏ quan ngại sâu sắc về việc gia tăng các hành vi đàn áp xuyên quốc gia đối với các nhà hoạt động và người bất đồng chính kiến Việt Nam ở nước ngoài, bao gồm quấy rối, bắt cóc và cưỡng bức hồi hương. Blogger Đường Văn Thái, bị bắt cóc tại Thái Lan, nơi anh đã xin được quy chế tị nạn, bị cưỡng bức hồi hương và bị kết án 12 năm tù tại Việt Nam. Y Quynh Bdap, người đồng sáng lập tổ chức Người Thượng vì Công lý, bị kết án vắng mặt 10 năm tù, cũng có nguy cơ bị cưỡng bức hồi hương từ Thái Lan. Cảnh sát Việt Nam thông đồng với mật vụ Trung Quốc đã bắt giữ nhà sư Phật giáo Tulku Hungkar Dorje sau khi ông chạy trốn khỏi Tây Tạng để thoát khỏi sự đàn áp tôn giáo vào tháng 3 năm 2025. Ông qua đời trong tù tại TP Hồ Chí Minh chỉ vài ngày sau khi bị bắt và thi thể của ông đã bị hỏa táng bí mật.

Vào tháng 4 năm 2025, nhà tu hành Phật giáo Việt Nam Thích Minh Tuệ đã bị cảnh sát Sri Lanka chặn lại và cấm tiếp tục cuộc hành hương qua đất nước này sau khi Giáo hội Phật giáo Việt Nam do Nhà cầm quyền Cộng sản thành lập lưu hành báo cáo rằng nhà sư này là “mối đe dọa đối với trật tự công cộng”. FIDH và VCHR đã chia sẻ với Ủy ban Nhân quyền LHQ rằng : “chúng tôi lo ngại cho sự an toàn của Thích Minh Tuệ nếu ông trở về Việt Nam”.

“Những vi phạm nhân quyền có hệ thống và quy mô lớn này đặc biệt đáng lo ngại khi xét đến quá trình tái cấu trúc chính phủ toàn diện tại Việt Nam do Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Tô Lâm lãnh đạo nhằm củng cố quyền lực và tăng cường sự kiểm soát chính trị của Đảng” Faulkner cho biết. “Đảng Cộng sản Việt Nam và Chính phủ Việt Nam chỉ nói suông với các thể chế của LHQ, nhưng rõ ràng, 43 năm sau khi ký kết tham gia ICCPR, họ không có thiện chí chính trị nào để bảo vệ các quyền cơ bản của người dân Việt Nam.”

 

Bài đăng này cũng được chuyển dịch sang các ngôn ngữ: Tiếng Pháp Tiếng Việt

 

______________

Nguồn:

https://queme.org/vi/vchr-fidh-len-an-nhung-vi-pham-nghiem-trong-iccpr-tai-viet-nam-truoc-hrc-cua-lhq/?v=5b79c40fa7c2

 

VNTB (08.07.2025)

 

 

  

 

BẢN PHÂN TÍCH LUẬT AN NINH MẠNG CỦA VIỆT CỘNG & CÔNG ƯỚC LIÊN HIỆP QUỐC VỀ TỘI PHẠM MẠNG – MỐI HIỂM HỌA TOÀN CẦU ĐỐI VỚI TỰ DO VÀ DÂN CHỦ

 

Trước làn sóng bành trướng của các chế độ toàn trị trong không gian mạng, những quyền căn bản của con người đang ngày càng bị đe dọa, không chỉ tại các quốc gia độc tài, mà cả tại những xứ sở tự do nơi người tị nạn chúng ta đang cư ngụ.

Liên Minh Vì Dân Chủ Cho Việt Nam vừa công bố (và xin đính kèm) một bản báo cáo chi tiết với nhan đề: “Phân Tích Luật An Ninh Mạng của Việt Nam và Công Ước Liên Hiệp Quốc về Tội Phạm Mạng”. Là một cuộc đối chiếu pháp lý và cảnh báo về hiểm họa xuyên quốc gia, tài liệu này nhằm vạch trần âm mưu của Hà Nội trong việc lợi dụng công pháp quốc tế để mở rộng guồng máy đàn áp vượt biên giới, nhắm vào cả cộng đồng người Việt Quốc Gia yêu nước.

 

TỔNG QUÁT NỘI DUNG PHÂN TÍCH

🔸 Luật An Ninh Mạng của Cộng Sản Việt Nam, ban hành năm 2018, là một đạo luật phản dân chủ, nhằm kiểm soát thông tin, bóp nghẹt tự do tư tưởng và hình sự hóa mọi tiếng nói bất đồng chính kiến. Qua đó, CSVN cưỡng bức các công ty công nghệ cung cấp dữ liệu người dùng, xóa nội dung “nhạy cảm”, và tiếp tay cho hệ thống công an trị.

🔸 Công Ước Liên Hiệp Quốc về Tội Phạm Mạng – dự trù ký kết tại Hà Nội vào tháng 10 năm 2025 – tuy mang danh nghĩa phòng chống tội phạm điện tử, nhưng lại bao gồm những điều khoản hết sức mơ hồ và nguy hiểm, cho phép các quốc gia độc tài yêu cầu:

  • Cung cấp dữ kiện cá nhân,
  • Theo dõi hoạt động trên mạng,
  • Và thậm chí yêu cầu dẫn độ đối với những người bị buộc tội “nghiêm trọng” theo luật nội địa – kể cả những “tội chính trị” như “tuyên truyền chống nhà nước”.

🔸 CSVN – thủ phạm trong việc giam cầm các tù nhân lương tâm – đang chủ động dẫn đầu tiến trình Công Ước này, và lợi dụng tư cách chủ nhà để tô son trét phấn cho một thể chế độc tài toàn trị.

NGUY CƠ CHO CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT HẢI NGOẠI

Nếu Công Ước này được thông qua mà không có cơ chế bảo vệ nhân quyền độc lập, thì:

  • Một nhà đấu tranh đang sinh sống hợp pháp tại Hoa Kỳ, Canada, hoặc Âu Châu, chỉ cần bị Hà Nội cáo buộc tội danh “tuyên truyền” hay “gây rối an ninh”, là có thể bị yêu cầu truy xuất dữ liệu, bị theo dõi điện tử, hoặc yêu sách dẫn độ thông qua hiệp ước quốc tế.
  • Các nước dân chủ, nếu không cảnh giác, có thể vô tình tiếp tay cho chế độ cộng sản đàn áp những người đang đấu tranh vì lý tưởng dân chủ và tự do.

 

THỈNH NGUYỆN VÀ HÀNH ĐỘNG

Chúng tôi khẩn thiết mời gọi quý đồng bào tỵ nạn cộng sản, các hội đoàn đấu tranh, giới truyền thông Việt ngữ, và các tổ chức nhân quyền tiếp tay phổ biến rộng rãi tài liệu này.

Bản phân tích không những là một công trình pháp lý nghiêm túc, mà còn là một lời kêu gọi bảo vệ chính nghĩa Quốc Gia, trước một âm mưu xảo quyệt của cộng sản.

Xin kính chuyển đến quý vị dân cử địa phương, cơ quan lập pháp và giới chức hữu trách tại các quốc gia dân chủ.

Tự do không bao giờ là miễn phí. Chúng ta phải luôn cảnh giác để bảo vệ nó – cho quê hương, cho thế hệ mai sau, và cho chính mình.

Nếu quý vị cần thêm bản tóm tắt, bài phát biểu, hoặc văn thư chính thức để vận động chính giới, chúng tôi sẵn sàng cung cấp.

Xin chân thành cám ơn quý vị đã quan tâm.

 

Liên Minh Vì Dân Chủ Cho Việt Nam
📧 info@endcommunism.net
🌐 www.allianceforvietnamsdemocracy.org