Cơ quan điều tra Viện Kiểm sát nhân dân tối cao: ‘vật vờ như cái bóng’ hay công cụ kiểm soát quyền lực?

 

Hơn hai tháng sau khi khởi tố vụ án, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Vĩnh Long vào ngày 5/8 đã khởi tố bị can tài xế điều khiển xe tải tông tử vong nữ sinh 14 tuổi ở huyện Trà Ôn (cũ).

Cơ quan điều tra của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao tống đạt lệnh bắt tạm giam hôm 29/7/2025 với năm cán bộ công an trại tạm giam ở Kiên Giang về tội dùng nhục hình khiến một phạm nhân tử vong

 

Kết quả này được cho là phần lớn nhờ sự vào cuộc trước đó của Cơ quan điều tra VKSND Tối cao.

Cơ quan điều tra của Viện KSND Tối cao không khởi tố vụ án liên quan đến tài xế xe tải cán chết nữ sinh, vì nhiệm vụ đó là thuộc về cơ quan điều tra của công an.

Chỉ khi nào quy trình tố tụng – của một trong ba cơ quan gồm công an, viện kiểm sát hay tòa án – có sai sót, cơ quan này mới bắt tay vào cuộc.

Nhưng sự tham gia của Cơ quan điều tra của Viện KSND Tối cao được cho là đã góp phần vào tiến trình đi tìm công lý của gia đình nữ sinh bị tai nạn, cũng như nhiều vụ vi phạm các quy định tố tụng khác.

 

Góp phần vào tiến trình đi tìm công lý

Vụ tai nạn ở Vĩnh Long khiến nữ sinh lớp 9 tử vong xảy ra vào tháng 9/2024, không chỉ khiến gia đình này mất con, mà còn mất cả cha.

Người cha, trong cơn phẫn uất đi tìm công lý sau bảy tháng ròng rã khiếu nại bất thành, đã xách súng bắn tài xế xe tải hôm 28/4/2025, sau đó tự tử.

Lý do dẫn tới quyết định đau lòng của người cha, là do cơ quan điều tra và công tố tuyên bố nữ sinh thiệt mạng lại chính là người “có hành vi gây nguy hiểm cho xã hội”. Vì rằng người này đã chết nên không khởi tố vụ án.

Quyết định này, cùng cái chết của người cha, khiến dư luận xã hội phẫn nộ.

Thảm kịch xảy ra là hồi chuông khiến cho Cơ quan điều tra của Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao (Viện KSND Tối cao) phải nhảy vào cuộc.

Động thái của Cơ quan điều tra thuộc VKSND Tối cao được cho là đã khiến Bộ Công an phải xem xét lại và thừa nhận quá trình điều tra “có thiếu sót”.

Bước đi mang tính cột mốc tiếp theo là vụ án cuối cùng đã được khởi tố. Tài xế bị cấm đi khỏi nơi cư trú và giờ đây đã bị khởi tố.

Đây chỉ là một trong các ví dụ điển hình gần đây nhất được cho là đạt những bước tiến đáng kể nhờ có bóng dáng, sự tham gia của Cơ quan điều tra VKSND Tối cao.

Một vụ việc nữa hiện đang thu hút sự quan tâm của dư luận, là vụ năm cán bộ công an bị khởi tố, tạm giam hôm 29/7 về tội dùng nhục hình khiến phạm nhân tử vong, theo khoản 4 Điều 373 Bộ luật Hình sự.

Năm cán bộ công an là cán bộ một trại tạm giam tại tỉnh Kiên Giang. Nạn nhân, một phạm nhân bị giam giữ tại đây, đã tử vong sau khi bị năm vị này dùng tay đấm và sử dụng gậy cao su đánh.

Cơ quan điều tra của Viện KSND Tối cao là nơi đưa vụ việc này ra ánh sáng.

Đây là những động thái mới nhất mà cơ quan điều tra của Viện KSND Tối cao thực hiện kể từ khi cơ quan này đối diện với “cuộc chiến một mất một còn“.

Trước đó, Bộ Công an, cơ quan soạn thảo Dự luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự, đã đề nghị bỏ cơ quan điều tra của Viện Kiểm sát, mà một trong các lý do là Hiến pháp không quy định có cơ quan này.

Bối cảnh của đề nghị trên là cuộc cách mạng tinh gọn mà Tổng Bí thư Tô Lâm phát động, trong đó có việc sắp xếp, tổ chức lại bộ máy chính quyền.

Chính phủ cũng đã nhất trí với đề nghị của Bộ Công an, lập luận rằng việc không tổ chức cơ quan điều tra của Viện KSND Tối cao vừa “theo đúng quy định của Hiến pháp” và “không trái với các nghị quyết của Bộ Chính trị và Trung ương”.

Theo lập luận này thì sự tồn tại của cơ quan có 63 tuổi đời này là vi hiến, vì Hiến pháp chỉ quy định “Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp”, chứ không có chức năng điều tra.

 

Tồn tại hay không tồn tại?

Nhưng lập luận này đã không thuyết phục được Viện KSND Tối cao, vốn là một cơ quan độc lập với Chính phủ.

Một trong những lý do Viện KSND Tối cao muốn giữ lại cơ quan điều tra là nhằm kiểm soát quyền lực của nhà nước, góp phần bảo đảm hiệu quả công tố và kiểm sát điều tra.

Trong lý do để giữ lại cơ quan điều tra, Viện KSND Tối cao cho rằng họ đã điều tra nhiều vụ án lớn, đặc biệt nghiêm trọng, vượt chỉ tiêu của Quốc hội.

Năm 2024, Viện KSND Tối cao cho biết cơ quan điều tra của họ đã điều tra thành công hơn 90% vụ án thuộc thẩm quyền, “vượt xa chỉ tiêu mà Quốc hội đề ra là 70%”.

Chưa hết, tỷ lệ điều tra, khám phá các tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng đạt 100%; tỷ lệ thu hồi tài sản tham nhũng đạt gần 90%.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã quyết định chưa xem xét Dự luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự tại kỳ họp thứ 9, diễn ra hồi tháng 5 và tháng 6 vừa qua.

Nghị quyết 1745 được Ủy ban Thường vụ Quốc hội Việt Nam thông qua ngày 27/6/2025 vẫn giữ nguyên Cơ quan điều tra Viện KSND Tối cao.

Nhưng việc Bộ Công an và Chính phủ muốn bỏ cơ quan điều tra của Viện KSND Tối cao cũng đã đặt ra một số câu hỏi, nếu điều đó xảy ra thì cơ quan nào sẽ thay thế để đóng vai trò đối trọng, giám sát và minh bạch trong quá trình điều tra tố tụng.

Một số luật sư mà BBC News Tiếng Việt phỏng vấn nhận định rằng cơ quan này “vật vờ như cái bóng”, không phát huy được vai trò của mình.

Luật sư Ngô Anh Tuấn, Giám đốc Công ty Luật ATN từ Hà Nội, nói rằng điều đó đã khiến giới luật sư từng đặt câu hỏi về sự cần thiết hay không của cơ quan này.

Ông Tuấn nêu vụ tử tù Hồ Duy Hải như một ví dụ cho thấy Viện Kiểm sát dù “có quyền rất lớn” nhưng đã không “đi đến cùng” trong vai trò của mình.

Theo đó, Viện KSND Tối cao được ghi nhận là đã có công nhiều lần kháng nghị vụ án Hồ Duy Hải lên các cấp.

Khi cuối cùng bị tòa án tối cao bác bỏ, thay vì nêu ý kiến lên Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, sau đó là lên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Viện KSND Tối cao đã chọn “không làm gì tiếp”.

“Ông Lê Minh Trí, xưa là Viện trưởng Viện KSND Tối cao đã kháng nghị vụ này nhiều lần. Nay ông trở thành Chánh án Tòa án Tối cao – ngồi vào vị trí mà trước đây ông nói là có quyền quyết định trong việc lật lại vụ án – thì ông lại không làm. Đây là một trong số rất nhiều ví dụ cho thấy Viện KSND Tối cao có quyền nhưng không đi tới cùng quyền của mình. Tôi rất lấy làm tiếc,” luật sư Tuấn nói với BBC.

 

Quyền lớn nhưng có phát huy được?

Trong bối cảnh đó, cơ quan điều tra thời gian qua được cho là đã ra sức chứng tỏ sự cần thiết của mình, thông qua việc đẩy mạnh điều tra, xử lý một số vụ việc trọng điểm, thu hút sự chú ý của dư luận.

Cơ quan điều tra của Viện KSND Tối cao hoạt động trong một không gian hẹp hơn so với Bộ Công an: chỉ điều tra các vụ án liên quan đến hoạt động tố tụng, gồm của ngành công an, tòa án và chính cả viện kiểm sát.

Hồi tháng 4/2025, bà Phạm Thị Thu, kiểm sát viên, Phó trưởng phòng thuộc Viện Viện KSND Tối cao, đã bị cơ quan điều tra của chính viện này khởi tố và bắt giam để điều tra về tội môi giới hối lộ.

Bà Thu bị điều tra về hành vi nhận 2,4 tỷ đồng để chạy án cho một số bị cáo trong một vụ án về chống người thi hành công vụ ở Lào Cai.

Mới đây, vào ngày 24/7, Cơ quan điều tra Viện KSND Tối cao đã khởi tố ông Phạm Tấn Hoàng, cựu Phó Chánh án Tòa án Nhân dân Cấp cao tại Đà Nẵng, về tội nhận hối lộ.

Ông Hoàng là người thứ 27 bị khởi tố liên quan đến vụ án “Đưa hối lộ”, “Môi giới hối lộ” và “Nhận hối lộ” xảy ra tại Tòa án Nhân dân Cấp cao, nay là Tòa phúc thẩm TAND Tối cao tại Đà Nẵng, một vụ án này nằm trong diện Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực theo dõi, chỉ đạo trực tiếp.

Trước đó, 26 người bị khởi tố là các thẩm phán, kiểm sát viên, chấp hành viên, thư ký tòa án và luật sư, trong đó có ông Phạm Việt Cường – cựu Phó Chánh án Tòa án Nhân dân Cấp cao tại Đà Nẵng.

Với vị trí là cơ quan thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, Viện KSND Tối cao cho rằng cơ quan điều tra của họ có điều kiện trực tiếp phát hiện những dấu hiệu vi phạm trong quá trình tố tụng, từ đó kịp thời khởi tố, điều tra các tội phạm trong lĩnh vực tư pháp hiệu quả hơn các cơ quan khác.

 

Vai trò kiểm soát quyền lực?

Bà Hoàng Thị Quỳnh Chi, Vụ trưởng Vụ Pháp chế Viện KSND Tối cao, trong một cuộc họp hồi tháng Tư đã nói rằng việc giữ lại Cơ quan Điều tra của viện này “sẽ giúp bảo đảm nguyên tắc phân quyền hợp lý, kiểm soát lẫn nhau và không bị lũng đoạn bởi quyền lực đơn nhất.”

Tuy nhiên, luật sư Phùng Thanh Sơn, Giám đốc Công ty Thế giới Luật pháp từ TP HCM, nói với BBC News Tiếng Việt rằng ông không đồng tình với lý lẽ của Viện KSND Tối cao về sự cần thiết giữ cơ này vì vai trò kiểm soát quyền lực của họ.

“Tôi không đồng tình với lý lẽ mà Viện KSND Tối cao đưa ra rằng phải giữ lại cơ quan điều tra để kiểm soát quyền lực. Thực tế, chức năng kiểm sát việc tuân thủ pháp luật trong tố tụng của Viện Kiểm sát vẫn còn nguyên vẹn, không hề bị thay đổi (ngay kể cả khi không còn cơ quan này),” theo ông Sơn.

Luật sư Sơn lý giải rằng nếu Viện KSND Tối cao thực hiện tốt chức năng kiểm sát việc tuân thủ pháp luật trong tố tụng, từ khâu giải quyết tin báo tội phạm của cơ quan chức năng, thụ lý của tòa, quá trình điều tra cho đến xét xử, thì “chất lượng tư pháp sẽ được nâng lên đáng kể”.

“Thực tế đáng buồn là hiện nay việc kiểm sát tuân thủ pháp luật trong tố tụng ở khâu xử lý tin báo, tố giác tội phạm và thụ lý vụ án đang rất yếu kém, thậm chí chỉ mang tính hình thức. Có những vụ việc rõ ràng cơ quan điều tra, tòa án sai hoàn toàn, nhưng viện kiểm sát vẫn đồng quan điểm với cơ quan điều tra, với tòa khiến người dân phải miệt mài khiếu nại mới có thể được chấp nhận. Tôi có cảm giác viện kiểm sát không xem trọng khâu này,” luật sư Sơn cho hay.

Theo ông Sơn, thời gian qua, ông “chưa thấy sự chuyển mình tích cực nào của cơ quan điều tra Viện KSND Tối cao”.

Ông Sơn còn dẫn chứng bằng trải nghiệm cá nhân: đơn tin báo tội phạm mà ông nộp trực tiếp tại Cơ quan điều tra Viện KSND Tối cao tại TP HCM đã không nhận được phản hồi sau ít nhất 20 ngày.

“Điều này khiến tôi suy ngẫm sâu sắc: tôi là một luật sư, trực tiếp đứng đơn mà còn bị cơ quan điều tra Viện KSND Tối cao phớt lờ như vậy, thì người dân bình thường sẽ được đối xử ra sao?”

Luật sư Sơn cho rằng Viện KSND Tối cao cần phải chủ động, tích cực và độc lập hơn trong việc thực hiện chức năng kiểm sát đối với hoạt động của cơ quan điều tra, tòa án và thi hành án, đồng thời cần tập trung nguồn lực để làm tốt chức năng kiểm sát thay vì phân tán vào nhiều việc khác nhau.

Ông Sơn nói rằng kể cả khi giữ lại Cơ quan Điều tra Viện KSND Tối cao thì “mô hình đa trung tâm điều tra luôn cần thiết và có ý nghĩa sâu sắc” vì “nó mang lại cho người dân quyền lựa chọn và ngăn chặn tình trạng ‘độc quyền’ điều tra – nguồn cơn của tiêu cực và nhũng nhiễu.”

“Đây không chỉ là vấn đề về tổ chức bộ máy, mà còn là về quyền lợi chính đáng của người dân trong việc tiếp cận công lý một cách công bằng và hiệu quả,” luật sư từ TP HCM nói với BBC News Tiếng Việt.

 

BBC (05.08.2025)

 

 

 

 

 

ICCPR: Khai thác thành quả từ cuộc rà soát Việt Nam về các quyền dân sự và chính trị

Những bước tiếp theo có thể và cần thực hiện

 

Ts. Nguyễn Đình Thắng

 

Ngày 18 tháng 7, Uỷ Ban Nhân Quyền LHQ công bố bản nhận xét kết luận dài 16 trang gồm 62 phân đoạn từ phiên rà soát Việt Nam về thực thi Công Ước Quốc Tế về các Quyền Dân Sự và Chính Trị. Nội dung cho thấy uỷ ban này tin vào thông tin và dữ kiện do chính các nạn nhân cung cấp và nhìn thấu sự thật đằng sau các lời biện bác của đoàn đại diện nhà nước Việt Nam. Đây là thành quả đáng kể vì, thông qua một định chế nhân quyền LHQ, người dân đã ép nhà nước phải giải trình, dù là nói không đúng sự thật.

 

Cách nào để khai thác thành quả này?

Bước kế tiếp là lập hồ sơ về những lời giải trình sai sự thật của đoàn đại diện nhà nước Việt Nam. Ví dụ, khi bà Lê Thị Thu Hà đại diện Bộ Công An trả lời Uỷ Ban Nhân Quyền LHQ rằng tù nhân ở Việt Nam không ai bị biệt giam hoặc cùm chân, chúng ta chỉ cần trưng dẫn chứng cứ ngược lại — nói có sách mách có chứng. Về chi tiết, xin xem bài viết dưới đây đăng trên trang Facebook Đề Án Dân Quyền Việt Nam của BPSOS.

Không có gì tệ hại bằng biện bác sai sự thật để rồi phải đối mặt với các phản thí dụ rành rành, không thể chối cãi. Khi ấy, uy tín của người phát biểu và cả nhà nước mà họ đại diện xem như đổ sông đổ biển.  

Nộp hồ sơ nơi đâu?

Uỷ Ban Nhân Quyền LHQ (UN Human Rights Committee) là đương nhiên. Tuy nhiên, họ đã chính thức hoàn tất nhiệm vụ sau phiên rà soát. Các thông tin nhận được họ sẽ ghi nhận để sử dụng khi Việt Nam báo cáo giữa kỳ, hạn chót ngày 18 tháng 7, 2028. Uỷ ban này không có thẩm quyền lên tiếng về từng trường hợp cụ thể vì Việt Nam không ký Nghị Định Thư Tuỳ Chọn (Optional Protocal) kèm theo công ước. Tuy nhiên, các thành viên của Uỷ Ban, đều là những chuyên gia nhân quyền, có thể chuyển thông tin cho những đồng nghiệp thuộc các bộ phận khác của LHQ để lên tiếng.

Tổ Công Tác về Giam Giữ Tùy Tiện (UN Working Group on Arbitrary Detention) có quyền lên tiếng cho những trường hợp đã có hồ sơ với họ. Họ có khá nhiều hồ sơ tù nhân lương tâm Việt Nam.

Báo Cáo Viên Đặc Biệt LQH (UN Special Rapporteurs) là các chuyên gia độc lập của LHQ về từng lĩnh vực — có tổng cộng 46 lĩnh vực nhân quyền có báo cáo viên đặc biệt. Chẳng hạn, hồ sơ của Ông Bùi Tuấn Lâm, một phản thí dụ trong bài viết dưới đây, liên quan đến các Báo Cáo Viên Đặc biệt về quyền tự do ý kiến và tự do biểu đạt, về chống tra tấn.

Các chính phủ quan tâm nhân quyền như Hoa Kỳ, Canada, Đức, Anh, Úc, Liên Âu… Các chính phủ này làm báo cáo hàng năm về tình trạng nhân quyền ở một số quốc gia, trong đó có Việt Nam. Phần lớn các quốc gia này có một số định chế nhân quyền có thể lên tiếng và có biện pháp chế tài các thủ phạm vi phạm nhân quyền nghiêm trọng.

Các tổ chức nhân quyền quốc tế quan tâm đến các lĩnh vực nhân quyền chuyên biệt ở Việt Nam, như Ân Xá Quốc Tế, Human Rights Watch, CSW, FIDH, v.v. Các tổ chức này, nếu được cung cấp thông tin chính xác, có thể lên tiếng cho các hồ sơ cụ thể và tiếng nói của họ có ảnh hưởng quốc tế. Chẳng hạn, ngày 20 tháng 6, 2025, Human Rights Watch đã lên tiếng về hồ sơ của Ông Bùi Tuấn Lâm; họ sẽ dễ dàng tiếp tục lên tiếng để phản bác tuyên bố của bà Lê Thị Thu Hà.

Chính đương sự hoặc thân nhân. Họ có thể dùng thông tin để đối chất với giới chức hữu trách khi thực tế khác với lời khẳng định của đoàn đại diện nhà nước Việt Nam tại phiên rà soát bởi LHQ. Sự khác biệt chỉ có thể là: (1) các giới chức hữu trách phạm luật, (2) đại diện nhà nước Việt Nam đã báo cáo sai với LHQ.

 

Quan chức Việt Nam cố ý qua mặt các chuyên gia nhân quyền liên hiệp quốc

Như chúng ta đã biết, trong hai ngày 7 và 8 tháng 7 năm 2025 vừa qua tại Geneva, Thuỵ Sĩ, các chuyên gia nhân quyền Liên Hiệp Quốc đã có các phiên trao đổi thuộc chu kỳ thứ tư về tình hình thực thi Công Ước Quốc Tế Về Các Quyền Dân Sự Và Chính Trị (International Covenant on Civil and Political Rights – ICCPR) tại Việt Nam với một số vị đại diện của quốc gia này.

Trả lời cho các chất vấn của các chuyên gia nhân quyền Liên Hiệp Quốc về vấn đề giam giữ tù nhân, đại diện Bộ Công An, bà Lê Thị Thu Hà đã khẳng định rằng: “về biệt giam và cùm chân của phạm nhân thì tôi KHẲNG ĐỊNH là không có việc đó ở trại giam của Việt Nam”.

Đây là một thông tin hoàn toàn sai sự thật với những gì đang xảy ra tại Việt Nam.

Chỉ cần tìm kiếm trên mạng Internet với cụm từ “bị biệt giam và cùm chân” thì chúng ta sẽ nhận được vô số thông tin về các trường hợp những tù nhân lương tâm đã từng bị các trại tù đặt dưới sự quản lý của Bộ Công An ra các quyết định kỷ luật bằng biện pháp hà khắc “đưa vào buồng kỷ luật và cùm chân”. Hình ảnh minh hoạ cho thông tin trong bài viết này chúng tôi chỉ xin dẫn ra hai trường hợp sau đây:

Ngày 26 tháng 3 năm 2024, Trại Giam An Điềm đã ra quyết định trong đó ghi rõ: “Giam tại buồng kỷ luật 10 ngày, cùm chân. Kể từ 17 giờ 15 phút, ngày 26 tháng 3 năm 2024 đến 17 giờ 15 phút ngày 05 tháng 04 năm 2024” đối với ông Hoàng Đức Bình, một tù nhân lương tâm hoạt động trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.

Và mới hơn nữa, ngày 30 tháng 4 năm 2025, Trại Giam Xuân Lộc đã ra quyết định trong đó ghi: “Giam tại buồng kỷ luật 10 ngày (Kể từ 15 giờ 30 phút, ngày 30/04/2025 đến 15 giờ 30 phút, ngày 10/05/2025” đối với ông Bùi Tuấn Lâm, một tù nhân lương tâm hoạt động trong lĩnh vực bảo vệ nhân quyền.

Ngoài ra, trong cả hai quyết định kỷ luật này còn đưa ra các hình phạt bổ sung khác bao gồm hạn chế mua đồ ăn uống, hạn chế thăm gặp thân nhân trong thời gian từ hai đến ba tháng sau khi đã kết thúc 10 ngày bị giam tại buồng kỷ luật.

Không những vậy hiện nay, tại Khoản 1 và 2 Điều 34 trong Văn Bản Hợp Nhất số 13/VBHN-VPQH của Văn Phòng Quốc Hội phát hành ngày 24 tháng 2 năm 2025 hợp nhất Luật Thi Hành Án Hình Sự 2019 với một số văn bản pháp quy khác vẫn giữ quy định “ Giam tại buồng kỷ luật đến 10 ngày.[…] Trong thời gian bị giam tại buồng kỷ luật, phạm nhân không được gặp thân nhân và có thể bị cùm chân” đối với những phạm nhân vi phạm nội quy trại giam hoặc vi phạm pháp luật.

Cũng tại văn bản này, tại Điểm g, Khoản 2 Điều 30 thì quy định giam riêng (giam giữ biệt lập – biệt giam) đối với những người “thường xuyên vi phạm nội quy cơ sở giam giữ phạm nhân”.

Ngoài ra, tại Điều 30 Nghị Định số 118/2024/NĐ-CP là văn bản hướng dẫn thi hành Luật Thi Hành Án Hình Sự 2019 đã quy định rất dài và chi tiết về các cách thức giam người, cùm chân người trong buồng kỷ luật và giam người trong buồng giam riêng (giam giữ biệt lập – biệt giam).

Cần lưu ý rằng buồng kỷ luật là một loại phòng giam giữ được thiết kế với đầy đủ các tính năng nhằm tra tấn thể xác, khủng bố tinh thần và hạ thấp nhân phẩm con người một cách vô cùng vô nhân đạo được đưa ra với lý do “đảm bảo an ninh quốc gia”. Phòng giam này chật hẹp vừa đủ một người nằm. Phòng giam có gắn cùm chân. Giả xử không cùm chân thì cũng không còn chỗ nào khác đủ cho việc nằm ngồi trong đó. Người bị giam trong buồng kỷ luật không được vệ sinh thân thể và dọn các chất thải như nước tiểu và phân của mình trong suốt thời gian bị giam. Họ phải ăn ngủ cùng với các chất thải này trong điều kiện không có ánh sáng tự nhiên và nhân tạo.

Từ những căn cứ minh tường trên, chúng ta dễ dàng nhận thấy vị đại diện nhà nước Việt Nam đã cung cấp thông tin sai sự thật hoặc cố tình lừa gạt các chuyên gia nhân quyền của Liên Hiệp Quốc và biến cuộc trao đổi nghiêm túc thành trò đùa bỡn cợt!

Do vậy, không quá bất ngờ nhưng thật sự vô cùng lo ngại khi ngày 18 tháng 7 năm 2025, Uỷ Ban Công Ước đã phát hành bản kết luận đánh giá về tình hình thực thi công ước tại Việt Nam dựa trên kết quả các phiên trao đổi nói trên. Bản kết luận đã đưa ra hơn 60 vấn đề được tập hợp trong 57 phân đoạn đánh giá về sự vô cùng thất vọng của các chuyên gia Liên Hiệp Quốc đối nhà nước Việt Nam thực thi công ước này khi họ đã tham gia được 43 năm.

Với tư cách là người dân – người chủ của quốc gia, chúng ta phải dùng quyền của mình để yêu cầu bà Lê Thị Thu Hà và nhà nước Việt Nam phải nghiêm túc trong việc báo cáo với Liên Hiệp Quốc về tình trạng thực thi công ước của họ. Chúng ta không cho phép họ được bôi xấu thể diện quốc gia khi họ đã biến các phiên họp của Liên Hiệp Quốc trở thành sân khấu để họ trình diễn những màn nói dối và lừa gạt các chuyên gia Liên Hiệp Quốc. Đồng thời chúng ta cũng cần phổ biến cho mọi người cùng biết tình trạng này để cùng nhau nộp các bản báo cáo tới cho Liên Hiệp Quốc để rọi ánh sáng vào những góc khuất vi phạm nhân quyền ở Việt Nam.

Với các gia đình tù nhân lương tâm, đây là cơ hội để khiếu nại với nhà nước Việt Nam và nộp báo cáo với Liên Hiệp Quốc về tình trạng người thân của mình đã bị chính quyền Việt Nam giam giữ vô nhân đạo và hạ thấp nhân phẩm.

Chúng ta có đầy đủ những quyền đó bởi chúng đã được Liên Hiệp Quốc thiết lập trong chín công ước quốc tế nhân quyền. Ngoài ra, ngay trong bản Kết luận về tình hình thực thi ICCPR tại Việt Nam vừa nêu ở trên, Uỷ Ban Công Ước cũng đã nhắc nhở về các quyền này của chúng ta trong các phân đoạn số 60, 61 và 62.

 

Ts. Nguyễn Đình Thắng

machsongmedia.org (04.08.2025)

 

 

 

 

 

Đấu tranh dân chủ ôn hòa và nhân văn – Vì sao?

 

Trong một xã hội thiếu dân chủ, cuộc sống của những người dân thường bị chi phối bởi một hệ thống quyền lực tập trung, độc đoán và khép kín. Họ, dĩ nhiên là nạn nhân của hệ thống quyền lực bất công đó.

Song có một điều mà ít ai để ý là, không chỉ người dân bình thường – những người bị cai trị – mà ngay cả tầng lớp cầm quyền cũng là nạn nhân của chính hệ thống quyền lực ấy.

Trong một hệ thống thiếu dân chủ, những kẻ nắm giữ quyền lực buộc phải đánh đổi nhiều thứ quý giá: Tự do cá nhân, lương tri, đạo đức, thậm chí là cả nhân tính, để có thể bước vào và duy trì vị trí của mình trong guồng máy cai trị. Một khi đã dấn thân vào con đường quyền lực, họ có thể dần dần bị quyền lực nhào nặn thành những con người khác hẳn – lạnh lùng, vô cảm, đầy tính toán, thậm chí bị quyền lực lưu manh hoá – và không còn là chính mình nữa.

Từ góc nhìn đó, đấu tranh dân chủ không chỉ là một hành trình giành lại công lý, tự do và phẩm giá cho những người bị trị, mà nó còn là một nỗ lực nhằm thức tỉnh, giải thoát cả những người đang cai trị – những kẻ đang bị quyền lực tha hoá – ra khỏi vị thế phi nhân mà bản thân họ cũng không hẳn là mong muốn, hoặc không lường trước khi bắt đầu bước chân vào con đường chính trị.

Nếu nhận thức như vậy, chúng ta sẽ thấy rõ: Đấu tranh vì tự do, dân chủ và nhân quyền là hành động vì con người – vì tất thảy mọi chúng sinh – chứ không phải là cuộc đối đầu một mất một còn giữa cái thiện và cái ác, giữa “chúng ta” và “chúng nó”.

Chính vì thế, con đường đấu tranh ôn hoà và nhân văn là con đường đúng đắn và bền vững nhất. Sự cực đoan, hận thù, bạo lực không thể là chất liệu để xây dựng nên một xã hội dân chủ thật sự, mà chỉ tái tạo vòng luẩn quẩn của bạo lực, bởi bạo lực sẽ lại sinh ra bạo lực.

Một khi những người đấu tranh mang trong mình nỗi căm hận, họ rất dễ sa vào chính lối mòn của những gì mà họ đang lên án. Ngược lại, nếu giữ được tinh thần nhân văn, cảm thông và tỉnh thức, họ có thể làm lay động lương tri con người – kể cả lương tri của chính những kẻ vẫn đang ngày đêm bị quyền lực cùng những lợi ích của nó làm cho mờ mắt.

Ảnh: Mục sư Nguyễn Hồng Quang – một biểu tượng về tinh thần đấu tranh bền bỉ và ôn hoà cho quyền tự do tôn giáo. Mặc dù nhiều lần bị đánh bầm dập, nhưng ông không những không thù hận những kẻ gây tội ác với mình mà còn luôn cầu nguyện cho họ. Ảnh chụp một lần ông bị hành hung khoảng 10 năm trước. Ảnh trên mạng

 

Lịch sử thế giới đã từng chứng kiến những phong trào dân chủ thành công bằng tinh thần bất bạo động, lấy lòng kiên nhẫn và nhân hậu làm sức mạnh – như cuộc đấu tranh của Mahatma Gandhi ở Ấn Độ, hay phong trào dân quyền do Martin Luther King Jr. lãnh đạo tại Hoa Kỳ. Họ không chỉ thay đổi thể chế, mà còn thức tỉnh đạo đức của toàn xã hội.

Cuối cùng, mục tiêu của cuộc đấu tranh vì tự do, dân chủ và nhân quyền không phải là để tiêu diệt kẻ thù, mà là để xoá bỏ bất công, bảo vệ phẩm giá con người, và thiết lập nên một nền dân chủ – tự do (liberal democracy) mà ở đó, những giá trị tự do – dân chủ – nhân văn sẽ là kim chỉ nam dẫn dắt xã hội phát triển lành mạnh và bền vững, và ở đó, tất cả mọi người, cả người bị trị lẫn những người từng cai trị trước kia, đều có thể chung sống với nhau và bình đẳng trước pháp luật.

Đó là những lý do vì sao, công cuộc đấu tranh vì tự do, dân chủ và nhân quyền cần được thực hiện bằng tinh thần ôn hoà và nhân văn – không phải vì chúng ta yếu đuối, mà vì chúng ta tin vào những giá trị phổ quát và trường tồn của con người.

 

Lê Anh Hùng

VNTB (04.08.2025)

 

 

 

 

 

KHÁNG THƯ CỦA HỘI TRUYỀN THÔNG NGƯỜI VIỆT BẮC CALI.

Yêu cầu CSVN trả tự do ngay lập tức cho tù nhân lương tâm Lê Đình Lượng, người đang bị biệt giam, trong tình trạng bịnh tật, nguy kịch đến tính mạng!

 

Nơi Gởi:

*Nhà cầm quyền CS, Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam

  • Amnesty International
  • Human Rights Watch
  • Ủy ban Nhân quyền Liên Hiệp Quốc

 

Kính thưa Quý Vị,

Chúng tôi, trong Hội Truyền Thông Người Việt Bắc Cali,

 

Kịch liệt phản đối hành vi giam giữ biệt lập và từ chối chăm sóc y tế đối với tù nhân lương tâm Lê Đình Lượng, hiện đang bị giam tại Trại giam Nam Hà trong tình trạng sức khỏe nguy kịch, có thể dẫn đến tử vong, bất kỳ lúc nào, nếu không được cấp cứu kịp thời!

Ông Lê Đình Lượng, sinh năm 1965, bị tuyên án 20 năm tù giam vào năm 2018, với cáo buộc “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” – một bản án hoàn toàn mang tính chính trị, thiếu chứng cứ, và vi phạm các nguyên tắc cơ bản của pháp quyền. Việc bỏ tù ông Lượng là một sự đàn áp dã man đối với tiếng nói yêu nước và đòi dân chủ, nhân quyền ôn hòa.

Theo thông tin từ gia đình, kể từ tháng 6 năm 2025 đến nay, ông bị biệt giam hoàn toàn không liên lạc, không tiếp tế, không chữa trị y tế, không có ánh sáng, không có thông báo nào từ phía trại giam. Tình trạng này không chỉ vi phạm quyền được sống, được điều trị y tế và nhân phẩm của người bị giam giữ, mà còn vi phạm nghiêm trọng các công ước quốc tế, mà Việt Nam là thành viên, bao gồm Công ước Quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị và Công ước chống tra tấn của Liên Hiệp Quốc.

Đặc biệt, việc biệt giam một người cao tuổi, có nhiều bệnh nền trầm trọng, sau khi ông đã từng tuyệt thực phản đối điều kiện giam giữ vô nhân đạo, là hành động hèn hạ và tàn ác, được coi là một hình thức giết người chậm rãi.

 

Chúng tôi yêu cầu:

1.Nhà cầm quyền CSVN, phải chấm dứt ngay lập tức, việc biệt giam đối với ông Lê Đình Lượng.

2.Phải khẩn cấp đưa ông đi khám chữa bệnh tại một cơ sở y tế độc lập, đủ điều kiện chăm sóc y tế cần thiết.

3.Phải trả tự do vô điều kiện cho ông Lê Đình Lượng, vì ông là một tù nhân lương tâm, bị giam giữ chỉ vì thực thi quyền tự do biểu đạt một cách ôn hòa.

4.Chúng tôi khẩn thiết yêu cầu, các tổ chức nhân quyền quốc tế, các chính phủ dân chủ, và công luận toàn cầu, lên tiếng mạnh mẽ về trường hợp ông Lượng và gây sức ép lên chính quyền CS Việt Nam, để chấm dứt ngay hành vi vi phạm nhân quyền này.

Mỗi giờ, mỗi ngày biệt giam ông Lê Đình Lượng trong im lặng, là mỗi bước tiến gần hơn đến cái chết do sự thờ ơ, vô trách nhiệm và tàn bạo của CSVN. Chúng tôi sẽ không im lặng. Và chúng tôi kêu gọi tất cả những ai còn có lương tri cũng không nên im lặng, cùng lên tiếng với chúng tôi.

Trả tự do cho Lê Đình Lượng ngay lập tức!

Chấm dứt tra tấn trong bóng tối!

Tôn trọng nhân quyền và luật pháp quốc tế!

 

San Jose, ngày 3 tháng 8 năm 2025

 

Thay mặt Hội Truyền Thông Người Việt Bắc Cali:

Lê Văn Hải

 

 

***

 

Báo động: Tù nhân lương tâm Lê Đình Lượng, đang bị biệt giam, không được chữa bệnh nặng, nguy hiểm đến tính mạng!

 

-Ông Lê Đình Lượng – một trong những tù nhân lương tâm bị kết án nặng nhất tại Việt Nam – hiện đang trong tình trạng sức khỏe nguy kịch khi bị biệt giam và tước mọi quyền tiếp xúc với bên ngoài tại trại giam Nam Hà, tỉnh Hà Nam. Gia đình cho biết ông đang không được phép khám chữa bệnh dù mang nhiều bệnh nền nghiêm trọng và đã tuyệt thực để phản đối sự ngược đãi.

 

Thông tin được con trai ông, anh Lê Đình Hiếu, đăng tải trên Facebook hôm 26 Tháng Bảy, như một lời kêu cứu công khai: “Từ đầu tháng 6 đến nay, gia đình hoàn toàn bị cắt liên lạc với bố tôi. Không được gặp mặt, không được gửi đồ tiếp tế, không một dòng thông báo nào từ trại giam.”

 

Theo anh Hiếu, gia đình chỉ biết được phần nào tình trạng của ông Lượng khi người thân đến tận nơi thì được thông báo ông “đang bị biệt giam vì chống đối trại.” Nhưng cái gọi là “chống đối,” theo gia đình, không phải là hành vi bạo loạn hay đe dọa an ninh, mà chỉ là sự phản ứng trong tuyệt vọng khi nhiều lần ông Lượng yêu cầu được khám chữa bệnh nhưng đều bị phớt lờ.

Ông Lê Đình Lượng, năm nay 60 tuổi, là một nhà hoạt động xã hội nổi bật ở miền Trung, từng lên tiếng mạnh mẽ về các vấn đề môi trường, nhân quyền và dân chủ. Năm 2018, ông bị Nhà Cầm Quyền Cộng Sản Việt Nam kết án 20 năm tù giam – một trong những bản án nặng nhất đối với giới bất đồng chính kiến – với cáo buộc “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền.”

Ông bị cho là sử dụng tài khoản Facebook “Lỗ Ngọc” để đăng các bài viết bị cáo buộc là “tuyên truyền chống phá nhà nước.” Tuy nhiên, giới quan sát quốc tế và các tổ chức nhân quyền như Human Rights Watch, Ân Xá Quốc Tế và Liên Hiệp Quốc đều xem ông là tù nhân lương tâm và lên án bản án phi lý mà ông phải chịu.

Vào giữa Tháng Năm 2025, anh Lê Đình Hiếu từng cho biết cha mình đã phải tuyệt thực để phản đối những bất công trong trại giam, trong bối cảnh sức khỏe của ông đang suy sụp nghiêm trọng. Gia đình lo ngại rằng ông Lượng đang bị “chôn sống” trong bốn bức tường, không ánh sáng, không thuốc men, và không biết ông còn sống hay đã chết.

 

“Tại nơi gọi là cơ sở cải huấn, tiếng nói của người tù lương tâm như bố tôi gần như không được ai lắng nghe,” anh Hiếu viết. “Ông đã nhiều lần làm đơn, kêu cứu, nhưng mọi lời cầu xin đều rơi vào im lặng. Và giờ, thay vì được điều trị y tế, ông bị đẩy vào biệt giam – một hình thức giam giữ tàn bạo trong bóng tối, với sự tàn nhẫn lạnh lùng của một hệ thống không còn nhân tính.”

Trước tình trạng đó, giới hoạt động nhân quyền trong và ngoài nước đang kêu gọi Nhà Cầm Quyền Cộng Sản Việt Nam chấm dứt biệt giam ông Lượng và khẩn cấp cho ông được tiếp cận chăm sóc y tế. Nhiều ý kiến xem việc biệt giam và từ chối chữa trị không khác gì một hình thức tra tấn tinh thần và giết người gián tiếp.

Câu hỏi đặt ra: Vì sao một người đã 60 tuổi, mang nhiều bệnh nền, lại tiếp tục bị đối xử tàn nhẫn đến mức này? Và đến khi nào hệ thống tư pháp và trại giam ở Việt Nam mới chấm dứt những hình thức hành hạ âm thầm nhưng dai dẳng đối với người bất đồng chính kiến?

Trong khi Nhà Cầm Quyền Cộng Sản Việt Nam thường rêu rao trước quốc tế về “cải cách pháp luật” và “đối thoại nhân quyền,” thì chính những trường hợp như Lê Đình Lượng đang phơi bày sự thật hoàn toàn trái ngược: một nền cai trị tiếp tục đàn áp tiếng nói độc lập bằng bạo lực và trấn áp tinh thần – nơi sinh mạng của tù nhân có thể bị đánh đổi bằng im lặng.

 

Con trai, kêu cứu khẩn cấp cho cha, là tù nhân lương tâm Lê Đình Lượng

-Tôi là Lê Đình Hiếu, con trai của ông Lê Đình Lượng, một tù nhân lương tâm hiện đang bị chính quyền Việt Nam kết án 20 năm tù giam và 5 năm quản chế, theo Điều 79 Bộ luật Hình sự. Đây là một bản án vô cùng nặng nề, bất công dành cho một người yêu nước, đấu tranh ôn hòa vì quyền con người và tương lai của dân tộc.

 

Hiện nay, bố tôi đã bước sang ngày tuyệt thực thứ 5, để phản đối những bất công mà ông đang phải chịu đựng trong trại giam. Sức khỏe và tinh thần của ông đang suy kiệt nghiêm trọng. Ngay từ khi còn ở ngoài xã hội, ông đã mang trong mình nhiều bệnh tật, và từ khi bị giam giữ, tình trạng sức khỏe của ông ngày càng giảm sút nghiêm trọng. Gần đây, ông bị đau răng dữ dội, đã nhiều lần làm đơn xin được khám chữa bệnh, nhưng tất cả đều bị phớt lờ. Trong chốn lao tù, tiếng nói của người tù lương tâm như ông gần như không được ai lắng nghe.

 

Hôm nay, mẹ tôi vừa nhận được cuộc gọi ngắn ngủi từ ông. Giọng ông yếu ớt, thều thào, nói vội vã như lời kêu cứu cuối cùng, mong muốn mọi người bên ngoài lên tiếng giúp đỡ cho ông, một người đang bị kết án oan sai.

 

Từ ngày tôi và vợ rời khỏi Việt Nam, một mình mẹ tôi gắng gượng thăm nuôi chồng. Tuổi già, sức yếu, mỗi lần vào trại gặp ông là bà đầm đìa nước mắt, khiến tôi tan nát trái tim.

Một người làm con, mà ngay lúc này, không thể giúp gì được cho bố của mình.

Mỗi lần mẹ tôi đi thăm bố về, nghe bà kể, nhìn ông xanh xao, gầy mòn mà tôi không thể làm gì để giúp ông giành lại quyền được sống, quyền được chăm sóc y tế tối thiểu, những quyền cơ bản của một con người, một tù nhân.

 

Tôi viết những dòng này, tha thiết kêu gọi quý thân hữu, các tổ chức nhân quyền, truyền thông quốc tế và tất cả những ai quan tâm đến công lý và số phận của các tù nhân lương tâm tại Việt Nam, xin hãy lên tiếng ngay lúc này để cứu lấy bố tôi.

 

Bố tôi, Ông Lê Đình Lượng đã tuyệt thực sang ngày thứ 5. Mạng sống của ông đang bị đe dọa nghiêm trọng. Xin hãy giúp ông giành lại sự sống, giành lại công bằng. Xin hãy lên tiếng đòi trả tự do ngay lập tức cho một người hoàn toàn vô tội.

 

Chân thành cảm ơn tất cả sự quan tâm, chia sẻ của quý vị.

 

Lê Đình Hiếu

(03.08.2025)

 

 

 

  

ICCPR: Ủy ban Nhân quyền LHQ có nhận xét kết luận gì về Việt Nam?

 

Hải Di Nguyễn 

Qua việc rà soát về việc thực thi Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị tại Việt Nam. Ủy ban Nhân quyền LHQ khuyến nghị Việt Nam nên thành lập một Cơ quan Nhân quyền Quốc gia độc lập, nhưng nhà nước CSVN luôn tìm cách thoái thác vấn đề này

 Phiên rà soát nhà nước Việt Nam về việc thực thi Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị (International Covenant on Civil and Political Rights, viết tắt ICCPR) diễn ra vào ngày 7-8/7/2025.

 

Ngày 18/7 vừa qua, Ủy ban Nhân quyền LHQ đã công bố các nhận xét kết luận. 

Bài viết sau tóm tắt nội dung các nhận xét. Loạt bài viết tiếp theo sẽ phân tích một số chi tiết, một số nhận xét liên quan trực tiếp tới các cộng đồng tôn giáo, bản địa và thiểu số bị bách hại, tình trạng buôn người, sự an toàn của người tị nạn, và cách khai thác kết quả rà soát cho vận động quốc tế.

Giáo sư Changrok Soh, Chủ tịch Ủy ban Nhân quyền LHQ tại phiên rà soát hôm 7/7/2025 (nguồn: UN Web TV).

 

Cơ quan nhân quyền quốc gia

Ủy ban Nhân quyền (Human Rights Committee) khuyến nghị Việt Nam thành lập một cơ quan nhân quyền quốc gia độc lập, theo Nguyên tắc Paris. Điều này đã được nhắc trong nhiều phiên rà soát Việt Nam, nhưng phái đoàn nhà nước luôn nói vẫn đang tìm hiểu để chọn mô hình phù hợp.

 

Chống tham nhũng

Ủy ban khuyến nghị Việt Nam tăng cường nỗ lực điều tra tham nhũng; và tăng cường “tính minh bạch, độc lập, và trách nhiệm giải trình của tất cả các cơ quan chống tham nhũng”.

 

Tình trạng khẩn cấp

Ủy ban nhắc tới việc Việt Nam ban bố tình trạng khẩn cấp trong đại dịch COVID-19, hạn chế khả năng tiếp cận thực phẩm của các nhóm dân cư dễ bị tổn thương ở Sài Gòn, và bắt bớ những người chỉ trích cách nhà nước đối phó với đại dịch. Luật pháp Việt Nam hiện nay không xác định phạm vi hạn chế nhân quyền trong trường hợp tình trạng khẩn cấp.

 

Vấn đề không phân biệt

Ủy ban khuyến nghị Việt Nam giám sát và thu thập dữ liệu đối với các khiếu nại về phân biệt đối xử (do giới tính, khuynh hướng tính dục, sắc tộc, tôn giáo, khuyết tật) và kết quả khiếu nại.

 

Với cộng đồng LGBT

Ủy ban khuyến nghị Việt Nam bảo đảm không phân biệt vì bản dạng giới (gender identity) hay khuynh hướng tính dục; ngừng phẫu thuật và các can thiệp y tế không thể đảo ngược với trẻ em liên giới tính (intersex) không có khả năng đồng ý, trừ phi thật sự cần thiết; thay đổi luật để công nhận các cặp đồng giới.

 

Bình đẳng giới

Ngoài sự thiếu vắng phụ nữ trong đời sống chính trị, đặc biệt ở các vị trí cấp cao, Ủy ban cũng bày tỏ quan ngại về thái độ gia trưởng và định kiến về phụ nữ ở Việt Nam, đặc biệt ở các vùng nông thôn và nghèo đói, và trong các cộng đồng sắc tộc thiểu số.

 

Bạo hành phụ nữ, bao gồm bạo hành gia đình

Ủy ban khuyến nghị Việt Nam chỉnh sửa khái niệm hiếp dâm trong luật pháp (hiện nay yêu cầu phải có bằng chứng về thương tích trên cơ thể); bảo đảm phải điều tra và truy tố mọi vụ bạo hành phụ nữ và trẻ em gái, và có hình phạt tương xứng; tăng cường các cơ chế để tạo điều kiện và khuyến khích phụ nữ báo cáo khi bị bạo hành; không yêu cầu nạn nhân bạo hành gia đình hòa giải; nâng cao nhận thức cộng đồng về vấn đề bạo lực với phụ nữ, v.v.

 

Biến đổi khí hậu và suy thoái môi trường

Ủy ban khen cách Việt Nam đối phó với Bão Yagi năm 2024, nhưng khuyến nghị họ thực hiện các bước để bảo đảm sử dụng tài nguyên thiên nhiên bền vững; và có các biện pháp phòng ngừa thiên tai và suy thoái môi trường để bảo vệ con người, bao gồm các nhóm thiểu số và các nhóm yếu thế.

 

Án tử hình

Ủy ban hoan nghênh việc Việt Nam gần đây đã bỏ án tử hình cho 8 tội danh, nhưng quan ngại là vẫn giữ cho 10 tội danh, trong đó có “các tội danh phi bạo lực chưa đạt tới ngưỡng ‘tội nghiêm trọng nhất’ theo định nghĩa trong Công ước [ICCPR]”. Họ khuyến nghị Việt Nam chỉ áp dụng án tử hình cho những tội nghiêm trọng nhất; bảo đảm có ân xá hoặc giảm án trong mọi trường hợp; bảo đảm mọi trường hợp án tử hình đều có thể được cứu xét lại một cách minh bạch, hiệu quả, độc lập khi có bằng chứng mới, và có hỗ trợ pháp lý; có bồi thường và biện pháp khắc phục trong các vụ án oan; cung cấp dữ liệu về các án tử hình, v.v.

Tại phiên rà soát, phái đoàn Việt Nam nói không cung cấp thông tin dữ liệu về các vụ tử hình vì đó là “bí mật quốc gia”.

 

Cưỡng bức mất tích và đàn áp xuyên quốc gia

Ủy ban Nhân quyền LHQ nhắc tới cáo buộc Việt Nam có hành vi cưỡng bức mất tích và đàn áp xuyên quốc gia, chẳng hạn như ở Thái Lan; và “việc Việt Nam lạm dụng Lệnh truy nã đỏ của INTERPOL với các nhà đấu tranh nhân quyền, và sử dụng quy trình dẫn độ với động cơ chính trị”. Vụ dẫn độ chính là Y Quynh Bdap, dù họ không nêu đích danh.

Cấm tra tấn và các hình thức đối xử độc ác, vô nhân đạo, hoặc hạ thấp nhân phẩm.

Ủy ban khuyến nghị Việt Nam “tiến hành điều tra nhanh chóng, kỹ lưỡng, và công minh mọi cáo buộc tra tấn và đối xử vô nhân đạo, hạ nhục nhân phẩm”, truy tố và trừng phạt thủ phạm, cung cấp các biện pháp khắc phục cho nạn nhân; bảo đảm rằng mọi lời khai do tra tấn và ngược đãi không được chấp nhận tại tòa trong bất kỳ tình huống nào; hạn chế biệt giam và cùm chân, chỉ khi thật sự cần thiết; bảo đảm là người bị giam được chăm sóc y tế; v.v.

 

Cách đối xử với những người bị tước quyền tự do

Ủy ban khuyến nghị Việt Nam thực hiện các bước để cải thiện điều kiện giam giữ và giảm tình trạng nhà tù quá tải; bảo đảm là người bị giam có cơ chế khiếu nại độc lập và hiệu quả; v.v.

 

Trung tâm cai nghiện bắt buộc

Ủy ban bày tỏ quan ngại về tình trạng trong các trung tâm cai nghiện bắt buộc, cưỡng bức lao động trong điều kiện khắc nghiệt, thiếu chăm sóc y tế.

 

Quyền tự do và an ninh cá nhân

Ủy ban nhắc tới việc Việt Nam sử dụng cớ “an ninh quốc gia” để tạm giam kéo dài những nhà bất đồng chính kiến, đấu tranh nhân quyền, nhà báo, và những người thuộc sắc tộc hoặc tôn giáo thiểu số.

 

Xóa bỏ chế độ nô lệ, khổ sai, và buôn bán người

Ủy ban “quan ngại về tình trạng buôn bán người và cưỡng bức lao động tiếp tục phổ biến, đặc biệt thông qua chương trình xuất khẩu lao động của nhà nước”, và khuyến nghị Việt Nam phòng, chống, và trừng phạt buôn người và cưỡng bức lao động.

 

Tự do đi lại

Ủy ban nhắc tới các lệnh cấm xuất cảnh cho người bản địa và sắc tộc thiểu số.

Tiếp cận công lý, xét xử bình đẳng, và việc tòa án độc lập.

Về vấn đề công lý, Ủy ban Nhân quyền LHQ khuyến nghị Việt Nam bảo đảm tòa án phải hoàn toàn độc lập, không thiên vị, không bị chính phủ can thiệp hay gây áp lực; bảo đảm xét xử công bằng và đúng thủ tục tố tụng tư pháp, đặc biệt liên quan tới những người bảo vệ nhân quyền, nhà báo, những người thuộc sắc tộc và tôn giáo thiểu số; bảo đảm luật sư không bị can thiệp hay đe dọa; v.v.

 

Công lý vị thành niên

Ủy ban khuyến nghị Việt Nam chỉ giam giữ và bỏ tù trẻ vị thành niên như biện pháp cuối cùng và trong thời gian ngắn nhất có thể; và sửa đổi luật để định nghĩa trẻ em là dưới 18 tuổi (hiện nay là dưới 16 tuổi); v.v.

 

Quyền riêng tư

Ủy ban nói tới việc chính quyền Việt Nam theo dõi qua mạng, cắt mạng Internet và đường dây điện thoại, đặc biệt với những người đấu tranh nhân quyền, nhà báo, các nhóm sắc tộc và tôn giáo thiểu số; Nghị định 13/2023 “cho phép thu thập dữ liệu cá nhân mà không cần thông báo trước và không cần sự đồng ý của chủ thể”; Nghị định 147/2024 yêu cầu người dùng mạng xã hội phải xác minh tài khoản bằng số điện thoại hoặc số căn cước công dân, và “xóa nội dung bị xem là phạm pháp”.

 

Tự do lương tâm và niềm tin tôn giáo

Ủy ban Nhân quyền LHQ nhắc tới việc “gia tăng phân biệt đối xử, sách nhiễu, và đe dọa các nhóm tôn giáo thiểu số, đặc biệt tín đồ Tin Lành người Thượng và người H’mông, Phật giáo Khmer Krom, Cao Đài, và Hòa Hảo”; hạn chế tự do tôn giáo qua hệ thống đăng ký tôn giáo. Họ khuyến nghị Việt Nam bảo đảm quyền tự do tôn giáo hay niềm tin; không sử dụng tùy tiện luật an ninh quốc gia và chống khủng bố để nhắm vào các nhóm tôn giáo.

Đáng chú ý, nhận xét đúc kết sử dụng cụm từ “tự do lương tâm” (freedom of conscience), không có trong bản dịch Công ước ICCPR trong tiếng Việt. Nguyên văn Điều 18 là “Everyone shall have the right to freedom of thought, conscience and religion”, tức “Mọi người có quyền tự do tư tưởng, lương tâm, và tôn giáo”. Bản dịch tiếng Việt trên trang web của Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp lại dịch thành “Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng và tôn giáo.”

 

Tự do ngôn luận

Ủy ban khuyến nghị Việt Nam bảo đảm quyền tự do ngôn luận cho tất cả mọi người, “bao gồm các nhà đấu tranh nhân quyền, nhà báo, nhà bất đồng chính kiến, các nhóm sắc tộc và tôn giáo thiểu số”; chấm dứt các vi phạm quyền tự do biểu đạt, ngoài đời và trên mạng; điều tra, truy tố, trừng phạt các vụ vi phạm; sửa đổi hoặc bãi bỏ các điều luật hạn chế tự do ngôn luận và sử dụng “thuật ngữ mơ hồ”, như Bộ luật Hình sự, Luật Báo chí, Luật Tiếp cận thông tin, Luật An ninh mạng, các Nghị định 147/2024, 53/2022, 15/2020 và 119/2020; bảo đảm truyền thông đa dạng; v.v. Họ cũng nhắc tới Điều 109, 116, 117, 331 trong Bộ luật Hình sự, và con số ít nhất 160 tù nhân lương tâm đang bị giam cầm.

 

Tự do hội họp ôn hòa

Ủy ban cáo buộc Việt Nam “sử dụng vũ lực không cân xứng và bắt giữ tùy tiện” các nhóm hội họp ôn hòa, bao gồm các cộng đồng tôn giáo thiểu số.

 

Tự do lập hội

Ủy ban khuyến nghị Việt Nam thay đổi để cho phép các hiệp hội ghi danh và hoạt động, không bị nhà nước can thiệp, quấy rối, hay trả thù; bỏ mọi hạn chế và giám sát thái quá với các tổ chức XHDS trong việc nhận tài trợ trong nước và quốc tế”; “không sử dụng luật thuế quá rộng để trừng phạt những nhà đấu tranh nhân quyền và các tổ chức sắc tộc và tôn giáo thiểu số”.

 

Tham gia các vấn đề công cộng

Ủy ban khuyến nghị Việt Nam bảo đảm bầu cử minh bạch, công bằng, tự do; thúc đẩy đa nguyên; bảo đảm quyền tham gia hoạt động chính trị độc lập hoặc thuộc các đảng phái chính trị khác, không đe dọa hay trả thù; bảo đảm không ai bị loại trừ vì yêu cầu bất hợp lý hoặc phân biệt đối xử nếu đạt đủ điều kiện ứng cử; v.v.

 

Quyền người bản địa và sắc tộc thiểu số

Ủy ban bày tỏ quan ngại là nhà nước Việt Nam không công nhận khái niệm người bản địa, điều họ hỏi đi hỏi lại tại phiên rà soát. Họ khuyến nghị Việt Nam công nhận người bản địa và bảo vệ quyền người bản địa; bảo đảm người bản địa và sắc tộc thiểu số được “đại diện trong các cơ quan chính phủ và hành chính, bao gồm các vị trí cấp cao và ra quyết định”; bảo đảm người bản địa và sắc tộc thiểu số, đặc biệt phụ nữ, “được tiếp cận tất cả các dịch vụ công, không bị phân biệt đối xử, bao gồm việc được đi học bằng ngôn ngữ của mình”. 

Giáo sư Carlos Ramón Fernández Liesa là người nhiều lần hỏi Việt Nam có phân biệt giữa quyền người bản địa và quyền người thiểu số hay không (nguồn: UN Web TV).

 

Hải Di Nguyễn

machsongmedia.org (02.08.2025) 

Tham khảo:

Đọc toàn bộ nguyên văn tại: 

https://tbinternet.ohchr.org/…/treatyb…/Download.aspx.