Mỹ mất hơn một tháng để vớt hai máy bay rơi ở Biển Đông

 Mỹ thông báo đã thu hồi được tiêm kích, trực thăng rơi ở Biển Đông cách đây hơn một tháng trong tình trạng nguyên vẹn.

Đợt trục vớt xác trực thăng MH-60R, tiêm kích F/A-18F rơi ở Biển Đông diễn ra hồi tuần trước, nhưng thông tin chỉ được quan chức hải quân Mỹ công bố hôm 9/12. Động thái đánh dấu kết thúc chiến dịch hơn một tháng nhằm thu hồi các máy bay bị rơi.

Theo Hạm đội 7 hải quân Mỹ, các máy bay được trục vớt từ độ sâu khoảng 120 m, tất cả bộ phận đang được chuyển đến cơ sở quân sự ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương để phân tích chi tiết.

Hải quân Mỹ đã thuê tàu để trục vớt máy bay. Nó được trang bị hệ thống không người lái thuộc sở hữu chính phủ, song do nhà thầu vận hành. Tàu dân sự làm việc theo hợp đồng, từng tham gia hỗ trợ trục vớt nhiều máy bay quân sự Mỹ trong quá khứ.

Tiêm kích F/A-18F làm nhiệm vụ tại Trung Đông hồi năm 2020. Ảnh: USAF

 Hải quân Mỹ hôm 20/11 thông báo USNS Salvor, tàu cứu hộ lớp Safeguard thuộc Bộ tư lệnh Hải vận Quân sự, đang ở hiện trường để trợ giúp nỗ lực thu hồi các máy bay. Chưa rõ vai trò cụ thể của USNS Salvor trong chiến dịch.

Theo chuyên trang quân sự War Zone, tiêm kích F/A-18F và trực thăng MH-60R đều sở hữu nhiều công nghệ nhạy cảm, có thể thu hút sự quan tâm từ các đối thủ của Mỹ. Điều này khiến Washington muốn khẩn trương trục vớt hai máy bay để tránh nguy cơ xác chúng rơi vào tay nước ngoài, từ đó rò rỉ bí mật công nghệ.

Trực thăng MH-60R thuộc Phi đoàn Trực thăng Tấn công hàng hải số 73 và chiến đấu cơ F/A-18F thuộc Phi đoàn Tiêm kích số 22, đều thuộc biên chế tàu sân bay USS Nimitz, lần lượt rơi cách nhau nửa tiếng khi đang làm nhiệm vụ trên Biển Đông hôm 26/10. Cả 5 thành viên tổ lái trên hai máy bay đều được giải cứu an toàn.

Tổng thống Mỹ Donald Trump cho rằng nhiên liệu bị nhiễm bẩn có thể là nguyên nhân dẫn đến hai vụ rơi liên tiếp. Giới chức hải quân Mỹ cũng tin rằng không có “hành động xấu” liên quan sự việc, cho biết đang điều tra và chưa công bố nhận định sơ bộ. 

Vnexpress.net (10.12.2025)

(Theo War Zone)

 

 

 

Chiến lược an ninh mới của chính quyền Trump ở Biển Đông: Ngăn chặn ‘thù địch’ và xung đột ở Đài Loan

Nguồn hình ảnh,Getty Images

 

Giữ cho Biển Đông thông suốt để phục vụ hoạt động thương mại và không để một “thế lực thù địch” nắm quyền kiểm soát tuyến hàng hải này là một trong những ưu tiên then chốt của Tổng thống Mỹ Donald Trump, theo chiến lược an ninh được Nhà Trắng công bố hôm 5/12.

 

Chiến lược An ninh Quốc gia (NSS) của ông Trump, văn kiện đề cập các vấn đề an ninh của Mỹ trên toàn cầu, cũng nhấn mạnh vai trò then chốt của những đồng minh như Nhật Bản và Hàn Quốc trong việc “chia sẻ gánh nặng” ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương.

Các quốc gia có yêu sách ở Biển Đông như Việt Nam, Phi Luật Tân , Malaysia, Indonesia và Brunei không được nhắc tên trong văn kiện nói trên. Trong khi đó, Đài Loan và Trung cộng  được nhắc đến nhiều lần.

Văn bản cũng nhấn mạnh yêu cầu giữ cho khu vực này được “tự do và mở” trước các “tác nhân nước ngoài” bằng cách “duy trì tự do hàng hải trên mọi tuyến đường biển trọng yếu”, nhưng không nêu tên những tác nhân đó.

Tài liệu cũng nhấn mạnh rằng nếu kiểm soát được Đài Loan, Trung cộng  sẽ mở được cánh cửa tiến ra “Chuỗi đảo thứ hai ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương và củng cố vị thế của mình tại Biển Đông, một tuyến huyết mạch của thương mại toàn cầu.

 

Văn bản nói trên là bản tuyên bố tầm nhìn an ninh được chính quyền Mỹ cập nhật định kỳ để đưa lên Quốc hội, và cũng là bản đầu tiên kể từ khi ông Trump nhậm chức hồi tháng Một.

 

Ngăn chặn ‘thế lực thù địch’

Một thách thức an ninh được xác định trong bản chiến lược là nguy cơ Biển Đông bị nắm quyền kiểm soát khi “một thế lực thù địch” áp đặt “phí qua lại” trên Biển Đông, hoặc tệ hơn, đóng rồi mở tuyến hàng hải này tùy ý.

Mỹ kêu gọi cần xây dựng những biện pháp mạnh và khả năng răn đe để những khả năng này không xảy ra, đảm bảo cho tuyến hàng hải được thông suốt.

 

Để đạt được mục tiêu này, Mỹ không chỉ cần duy trì các khoản đầu tư cho sức mạnh quân sự – đặc biệt là hải quân – mà còn phải mở rộng hợp tác với mọi quốc gia có nguy cơ bị ảnh hưởng nếu bài toán trên không được giải quyết, từ Ấn Độ, Nhật Bản cho tới các đối tác khác trong khu vực, vẫn theo chiến lược.

Washington cũng kêu gọi Tokyo và Seoul phải “chia sẻ gánh nặng nhiều hơn” và gia tăng chi tiêu quốc phòng, tập trung vào những năng lực – bao gồm cả các năng lực mới – có thể răn đe đối thủ và bảo vệ “Chuỗi đảo thứ nhất”.

“Chuỗi đảo thứ nhất” là khu vực kéo dài từ Nhật Bản xuống Đài Loan, Phi Luật Tân  và Borneo.

Trong khi đó, “Chuỗi đảo thứ hai” lấy Nhật Bản làm điểm xuất phát và kết thúc ở Indonesia, vốn là một chuỗi tiền đồn mà Mỹ coi là thiết yếu để kiềm chế sự bành trướng quân sự của Trung cộng  và ứng phó với bất kỳ hành động xâm lược nào ở Tây Thái Bình Dương.

Ngăn chặn xung đột ở Đài Loan là ‘ưu tiên hàng đầu’

Việc một phần ba lượng hàng hóa vận chuyển toàn cầu mỗi năm đi qua Biển Đông mang hệ quả lớn đối với kinh tế Mỹ.

“Vì vậy, ngăn chặn xung đột liên quan đến Đài Loan – lý tưởng nhất là bằng việc duy trì ưu thế quân sự vượt trội – là ưu tiên hàng đầu,” vẫn theo chiến lược an ninh.

“Washington không ủng hộ bất kỳ hành động đơn phương nào nhằm thay đổi nguyên trạng tại eo biển Đài Loan” – vốn là một chính sách lâu nay của Mỹ về Đài Loan, văn bản chiến lược cho hay.

Về lâu dài, duy trì ưu thế kinh tế và công nghệ của Mỹ “vẫn là cách chắc chắn nhất để ngăn chặn và phòng tránh một cuộc xung đột quân sự quy mô lớn”.

Với các nhà chức trách Mỹ – vẫn theo văn bản – việc đổ dồn sự chú ý vào Đài Loan là hợp lý, một phần vì vai trò thống trị của hòn đảo trong ngành sản xuất chip bán dẫn.

Tuy nhiên, lý do chủ yếu là vì vị trí của Đài Loan giúp tiếp cận trực tiếp Chuỗi đảo thứ hai, đồng thời chia khu vực Đông Bắc Á và Đông Nam Á thành hai chiến trường riêng biệt.

Trung cộng  coi Đài Loan là một phần lãnh thổ của mình và Bắc Kinh chưa bao giờ loại trừ khả năng dùng vũ lực để đưa hòn đảo vào tầm kiểm soát.

Nước này cũng đưa ra các yêu sách rộng khắp trong khu vực, bao trùm gần như toàn bộ Biển Đông, và bị nhiều quốc gia láng giềng nhỏ hơn – bao gồm Việt Nam – phản đối.

Mỹ không thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức với Đài Loan, nhưng Washington vẫn là sự hậu thuẫn quốc tế quan trọng nhất của hòn đảo và theo luật pháp Mỹ, nước này có nghĩa vụ cung cấp cho Đài Loan các phương tiện tự vệ.

Vấn đề Đài Loan đã nhiều năm là điểm gây căng thẳng trong quan hệ Mỹ – Trung.

Chiến lược an ninh công bố hôm 5/12 cũng cho thấy Mỹ cam kết sẽ xây dựng một lực lượng đủ sức ngăn chặn mọi hành vi gây hấn ở bất kỳ điểm nào trong Chuỗi đảo thứ nhất.

Tuy nhiên, họ cho rằng đây là điều họ “không thể – và cũng không nên” làm một mình, mà cần có sự góp sức của các đồng minh – những bên phải “chủ động hơn, chi nhiều hơn” cho mục tiêu phòng thủ chung.

Ngôn từ liên quan đến Đài Loan của bản chiến lược an ninh lần này cứng rắn hơn so với chiến lược an ninh quốc gia mà chính quyền Trump công bố trong nhiệm kỳ đầu.

Bản năm 2017 chỉ nhắc đến Đài Loan ba lần trong một câu, theo đúng khuôn mẫu ngoại giao lâu nay. Tuy nhiên, bản chiến lược lần này nhắc tới Đài Loan tám lần trong ba đoạn văn, theo Reuters.

Việc văn bản năm nay đề cập đến việc “tăng cường năng lực của Mỹ và các đồng minh nhằm ngăn chặn mọi nỗ lực thâu tóm Đài Loan hoặc làm thay đổi cán cân lực lượng đến mức bất lợi khiến việc bảo vệ hòn đảo trở nên bất khả thi” là “ngôn từ mạnh mẽ nhất” mà một chiến lược an ninh quốc gia Mỹ từng dùng khi đề cập đến phòng thủ Đài Loan, theo ông Markus Garlauska, người có hai thập niên phục vụ trong chính phủ Mỹ với vai trò sĩ quan tình báo và chuyên gia chiến lược, trên trang web của tổ chức nghiên cứu Atlantic Council hôm 5/12.

Cách diễn đạt này lại càng quan trọng trong bối cảnh Tổng thống Donald Trump đã ký Luật Triển khai Cam kết Đài Loan và Washington cũng vừa công bố gói bán vũ khí tiên tiến trị giá 330 triệu USD cho Đài Loan hồi tháng 11/2025, theo ông Garlauska.

 

BBC (07.12.2025)

 

 

 

 Trung cộng  xây dựng mạng lưới tình báo “vô song” ở Biển Đông trong vài năm qua

 

Chế độ Trung cộng  (ĐCSTH) đã xây dựng thêm nhiều cơ sở mới có khả năng tình báo và tác chiến điện tử trên các đảo nhân tạo ở Biển Đông trong vài năm qua, theo phân tích gần đây dựa trên hình ảnh vệ tinh của Sáng kiến Minh bạch Hàng hải Châu Á (AMTI) thuộc Viện Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS).

Đá Vành Khăn. (Ảnh: Google Map)

 

Theo báo cáo ngày 2/12 của AMTI, “các cơ sở mới có khả năng được thiết kế để hỗ trợ các hệ thống [tác chiến điện tử] hoặc tình báo, giám sát và trinh sát (ISR) triển khai trên phương tiện đã được lắp đặt trên cả 3 tiền đồn lớn của Trung cộng  ở Trường Sa bao gồm: Đá Chữ Thập, Đá Vành Khăn và Đá Subi.” 

“Những nâng cấp này nhấn mạnh thực tế rằng chức năng chính của các căn cứ của Trung cộng  là cung cấp phạm vi ISR ​​vô song đối với toàn bộ Biển Đông.” 

AMTI đã xác định được nhiều cơ sở mới kể từ lần cuối các hình ảnh vệ tinh của những tiền đồn này được phân tích trong năm 2022. 

Chế độ Trung cộng  có 7 tiền đồn trong chuỗi đảo này, bao gồm nhiều căn cứ không quân, cảng hải quân, trận địa tên lửa và các cơ sở hạ tầng quân sự khác. 

Từ năm 2023 đến 2024, các ăng-ten mới đã được lắp đặt tại ít nhất 6 cơ sở hướng ra biển trên các tiền đồn Đá Chữ Thập, Đá Vành Khăn và Đá Subi. Hình ảnh cũng cho thấy các phương tiện mang thiết bị cảm biến và thông tin liên lạc gần hoặc trong các cơ sở này. 

AMTI lưu ý rằng nhóm các cơ sở này giống với “nhiều hệ thống [tác chiến điện tử] cơ động của Trung cộng ”, trong đó các phương tiện được ngụy trang một phần, mang theo những thiết bị khác nhau để gây nhiễu các dải tần của phổ điện từ. 5 phương tiện như vậy đã được thấy tại cơ sở trên Đá Vành Khăn, và tại Đá Subi, các cơ sở dường như được kết nối với một khu triển khai tác chiến điện tử cũ hơn. 

Các nhà nghiên cứu viết rằng những cơ sở mới này khác với các hệ thống kết hợp anten và phương tiện từng được thấy trước đó tại các tiền đồn, do cách bố trí đặc trưng của chúng, và “cho thấy một chức năng cụ thể hơn”. 

Hình ảnh vệ tinh cũng ghi lại “một vòng tròn bê tông có đường kính khoảng 46 mét và chứa bảy bệ bê tông nhỏ hơn” được xây dựng tại tiền đồn Đá Vành Khăn vào năm 2023. Theo AMTI, nó có điểm tương đồng với các khu vực bê tông hình tròn từng được xây dựng trước đó dành cho các hệ thống tác chiến điện tử cơ động nhằm triển khai nhanh, với “mảng hình tròn cho thấy mục đích tiềm năng là xác định hướng tín hiệu”. 

Đầu năm 2025, hai mái vòm chống thời tiết dùng để bảo vệ radar hoặc thiết bị tương tự, đã được lắp đặt ở hai phía đối diện của tiền đồn Đá Subi. Các nhà nghiên cứu AMTI cho biết chúng giống với những mái vòm được xây dựng năm 2017 mà chuyên gia an ninh quốc gia cấp cao J. Michael Dahm của Johns Hopkins vào năm 2020 đã xác định là dùng để cung cấp hệ thống tình báo, giám sát và trinh sát tầm rộng tại Biển Đông. 

Theo AMTI, ngoài các hệ thống tác chiến điện tử, các phương tiện được che phủ bằng bạt xuất hiện dọc bờ tây và bắc của Đá Vành Khăn vào năm 2023, có thể được dùng cho vũ khí động học. 

Báo cáo viết rằng “các vị trí này có khả năng phù hợp cho nhiều loại bệ phóng vũ khí cơ động đường bộ, bao gồm pháo binh hoặc tên lửa, hoặc thậm chí các phiên bản gắn trên xe của những hệ thống vũ khí tầm gần, được lắp đặt tại các tháp phòng thủ trên đảo.”

 Theo The Epoch Times

Trithucvn.com (05.12.2025)

 

 

  

Biển Đông : Động cơ chính trị của Trung cộng  đằng sau tuyên bố bảo vệ môi trường ?

Từng là một khu vườn dưới nước đầy sức sống với hệ sinh thái biển thịnh vượng, Biển Đông giờ đang bị huỷ hoại sau các cuộc đối đầu căng thẳng giữa Trung cộng  với các nước trong khu vực. Vậy mà ngày nay, chính Bắc Kinh lại đột nhiên ra tuyên bố về việc bảo vệ môi trường, biến bãi cạn Scarborough thành khu bảo tồn thiên nhiên biển. Điều này đã khiến giới quan sát tự hỏi liệu đằng sau nỗ lực ấy của Trung cộng  có ẩn chứa một động cơ chính trị? 

Ảnh do Lực lượng Tuần duyên Phi Luật Tân  cung cấp ngày 27/09/2019 cho thấy các thùng nhựa của ngư dân Trung cộng  tại bãi cạn Scarborough ở Biển Đông. AP

 

Biển Đông kêu cứu 

Các ngư dân Trung cộng  và Phi Luật Tân  từng mô tả bãi cạn Scarborough như một khu vườn dưới nước đầy sức sống, tràn ngập những cá thể trai tai tượng khổng lồ [loài nhuyễn thể lớn nhất từng được biết đến], những đàn cá và những rạn san hô nguyên sơ. Nhưng kể từ năm 2012, khi Trung cộng  giành quyền kiểm soát khu vực này sau một cuộc đối đầu căng thẳng trên biển với Phi Luật Tân , khu vườn ấy đã biến thành nghĩa địa.

Hình ảnh vệ tinh mà tổ chức Sáng kiến Minh bạch Hàng hải Châu Á (Asia Maritime Transparency Initiative) tại Washington phân tích vào năm 2019 cho thấy hơn 760 hecta rạn san hô tại khu vực bãi cạn Scarborough đã bị tàn phá, đặc biệt do việc khai thác trai tai tượng khổng lồ của Trung cộng . Trong khu vực rộng lớn hơn, bao gồm quần đảo Trường Sa, con số này vượt quá 6.470 hecta. Việc săn bắt trai tai tượng vốn đã tồn tại từ nhiều thập kỷ nhưng chỉ chính thức bùng nổ vào năm 2012, khi ngư dân Trung cộng  được chính quyền cho phép, thậm chí là được khuyến khích, gia tăng đánh bắt với danh nghĩa “bảo vệ chủ quyền quốc gia“.  

Nhật báo Le Monde dẫn lời ông John McManus, chuyên gia sinh vật biển thuộc Đại học Miami, cho biết quy mô tàn phá hệ sinh thái Biển Đông của hoạt động này đã vượt quá những gì ông từng chứng kiến trong suốt hơn 4 thập kỷ nghiên cứu. Ông mô tả lại cách mà ngư dân Trung cộng  thả chân vịt cỡ lớn xuống rặng san hô rồi cho thuyền đi vòng xung quanh. Các chân vịt này nghiền nát rặng san hô để ngư dân bắt các con trai tượng đang vùi mình trong cát phía dưới lớp san hô đó.

 

Bắc Kinh muốn “tô xanh” hình ảnh

Hồi tháng 9 năm nay, bộ Tài nguyên Thiên nhiên Trung cộng  đã tuyên bố Scarborough sẽ nằm trong nỗ lực quốc gia nhằm bảo vệ các hệ sinh thái biển nhạy cảm. Kế hoạch này xác định những vùng ưu tiên bảo vệ và những khu vực thử nghiệm dành cho các hoạt động như du lịch và nghiên cứu khoa học.

Bắc Kinh liên tục bày tỏ sự chân thành trong các mục tiêu bảo tồn của họ. Trong những cuộc phỏng vấn gần đây, các nhà nghiên cứu Trung cộng  đã lên tiếng bảo vệ đề xuất này. Giáo sư Wu Shicun, Chủ tịch Trung tâm Nghiên cứu Đại dương Hoa Dương, tuyên bố trong một cuộc phỏng vấn ngày 21/09 với tờ Observer : “Quyết tâm hàng đầu của Trung cộng  là bảo vệ môi trường và đa dạng sinh học biển của đảo Hoàng Nham [tên Trung cộng  gọi bãi cạn Scarborough] và các vùng nước xung quanh.”

 

Bảo vệ môi trường chỉ là cái cớ ? 

Về lý thuyết, dự án của Trung cộng  có vẻ phù hợp với các mục tiêu môi trường quốc tế. Tuy nhiên, ông Gregory Poling, chuyên gia về Biển Đông tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) ở Washington, nhận định rằng trên thực tế, đây là cách Bắc Kinh che giấu việc thâu tóm quyền lực cũng như mong muốn khẳng định tính chính danh, đằng sau lớp vỏ bảo vệ sinh vật biển. Không thể đạt được sự công nhận pháp lý hay ngoại giao đối với các yêu sách hàng hải, Trung cộng  tìm cách tự khẳng định như một bên tiên phong ở Biển Đông bằng cách “tô xanh” hình ảnh của mình.

Collin Koh, chuyên gia phân tích an ninh hàng hải tại Trường Quan hệ Quốc tế S. Rajaratnam (Singapore), cảnh báo rằng Manila cần phải phá vỡ âm mưu này, “vì nếu chúng ta chấp nhận hoặc không phản đối, Trung cộng  sẽ biến đây thành một thông lệ.”

Đương nhiên, nếu quan sát một cách đa chiều, có thể thấy không chỉ Bắc Kinh mà cả Manila và Hà Nội dường như đều đang cố gắng sử dụng chiến lược bảo vệ môi trường cho một động cơ chính trị nào đó. Phi Luật Tân  và Việt Nam đã đạt được những tiến bộ trong việc bảo vệ đại dương bằng cách thiết lập các khu bảo tồn biển và triển khai tuần tra nhằm ngăn chặn các hoạt động đánh bắt mang tính hủy diệt. Tuy nhiên, trong vùng biển tranh chấp này, những nỗ lực như vậy còn thường được thúc đẩy bởi lợi ích chiến lược, và các sáng kiến môi trường thường bị lợi dụng như một công cụ. 

 

Đâu là những mối nguy hại từ luận điệu vì môi trường của Trung cộng  ? 

Trước hết, các hành động của Trung cộng  gây tổn hại cho việc bảo tồn thực sự. Những đề xuất khu vực nhằm thành lập các vùng bảo tồn biển chung – thường trong khuôn khổ ASEAN – vốn đã dựa trên một mức độ hợp tác thấp. Nếu việc bảo vệ môi trường bị biến thành công cụ chiến lược, nó sẽ mất hết uy tín như một phương tiện xây dựng lòng tin lẫn nhau.

Nguy cơ thứ hai là việc bình thường hóa chủ nghĩa đơn phương. Bởi luật pháp quốc tế được xây dựng dựa trên các tiền lệ. Và nếu Bắc Kinh có thể hạn chế tiếp cận bãi cạn Scarborough dưới lý do lập khu bảo tồn thiên nhiên, thì ai sẽ ngăn họ làm điều tương tự ở quần đảo Trường Sa, hoặc xung quanh quần đảo Đông Sa do Đài Loan quản lý?

Cuối cùng, chính đa dạng sinh học biển là bên phải gánh chịu hậu quả. Đại dương không quan tâm tới chính trị, nhưng các hệ sinh thái của nó lại phải trả giá đắt. San hô không thể sống bằng những lời tuyên bố. Một tấm biển ghi “Đây là khu bảo tồn thiên nhiên” cũng không thể làm cho trai tai tượng khổng lồ quay trở lại.

 

Vậy các nước cần làm gì ?

Nếu Trung cộng  thực sự nghiêm túc trong việc bảo vệ đại dương, họ sẽ chấp nhận các cuộc kiểm tra môi trường độc lập, hợp tác với những quốc gia khác có tuyên bố chủ quyền trên các vùng biển xuyên biên giới, hoặc tuân thủ phán quyết trọng tài năm 2016. Nhưng Trung cộng  sẽ không làm vậy, trừ khi Phi Luật Tân , Việt Nam và cộng đồng quốc tế buộc họ phải đối mặt bằng cách đưa ra các mô hình thay thế.

Phi Luật Tân  và Việt Nam có thể chống lại chiến thuật của Trung cộng  bằng cách thiết lập các khu vực bảo vệ riêng trong những vùng tranh chấp, thúc đẩy một cơ chế bảo tồn chung dưới sự điều phối của ASEAN, và ghi nhận một cách khoa học tình trạng của các hệ sinh thái biển. Điều quan trọng là bảo tồn môi trường nhưng không hy sinh hoạt động đánh bắt truyền thống, nguồn sống của các cộng đồng địa phương.

Các khu bảo tồn biển không được trở thành công cụ cưỡng ép. Sự quan tâm thể hiện đối với tình trạng xuống cấp của môi trường không nên bị biến thành một công cụ chiến lược trong “vùng xám” của Biển Đông. Scarborough là một bài kiểm tra thực sự mang tính quyết định. Nếu Bắc Kinh thành công trong việc viết lại các quy tắc môi trường trong trường hợp này, họ có thể sớm vẽ lại toàn bộ bản đồ Biển Đông với từng khu bảo tồn một. 

(Nguồn : Courrier International, The Straits Times, Le Monde) 

RFI (04.12.2025)

 

 

 

Chiến Lược Xanh Hóa của Trung cộng  ở Biển Đông

 

-Tại Đông Nam Á, tuần san Pháp Courrier Internatinonal trích dịch bài đăng trên báo Tân Gia Ba Strait Times, đưa ra những giải thích về những hành động cải tạo của Trung cộng  tại biển Đông, xung quanh khu vực bãi cạn Scarborough, có tranh chấp chủ quyền giữa Bắc Kinh và Manila.

Khu vực này từng được ngư dân miêu tả “ đầy sự sống “, với các rạn san hô nguyên sơ và ngọc trai khổng lồ đã trở thành “ nghĩa địa “ kể từ sau cuộc đụng độ năm 2012, khi Trung cộng  muốn giành quyền kiểm soát, và đụng độ với lực lượng Phi Luật Tân.

Trung cộng  hiện biến rạn san hô Scarborough thành khu bảo tồn, bảo vệ các sinh vật biển, hạn chế tàu bè tiếp cận. Chiến lược xanh có vẻ như tuân thủ các mục tiêu quốc tế về môi trường, nhưng trên thực tế, được đánh giá là bức màn che màu xanh, giấu ý đồ thực sự của Bắc Kinh, giành chủ quyền tại khu vực này.

 

Nếu Bắc Kinh thành công trong việc hạn chế tiếp cận Scarborough dưới chiêu bài khu bảo tồn, điều này sẽ tạo tiền lệ để áp dụng chiến thuật tương tự cho Trường Sa hoặc quần đảo Ba Bình, và dần dần Trung cộng  sẽ đơn phương vẽ lại toàn bộ bản đồ Biển Đông, từ khu bảo tồn này sang khu bảo tồn khác.

Các tuyên bố “ bảo tồn “ hệ sinh thái của Trung cộng  dễ dàng bị vạch trần bởi hình ảnh vệ tịnh, được công bố năm 2019, cho thấy hơn 760 ha rạn san hô đã bị tàn phá, chủ yếu do các hoạt động bắt ngao quy mô lớn của Trung cộng . Tuần báo trích dẫn nghiên cứu của nhà Sinh vật học biển, Kent Carpenter, chỉ ra rằng các rạn san hô bị tàn phá, do lưỡi dao kim loại kéo dọc theo đáy biển để khai thác ngao.

Nếu Trung cộng  thực sự để tâm đến vấn đề môi trường, thì sẽ cho phép các hoạt động giám sát độc lập, hợp tác với các nước khác trong lĩnh vực này. Các chuyên gia cho rằng mục đích thực sự của Trung cộng  là để “ biện minh về mặt hành chính, tính hợp pháp cho các hoạt động của nước này, tại khu vực mà Bắc Kinh đã chiếm đóng bằng vũ lực. “

Tờ báo nhận định, Việt Nam và Phi Luật Tân có thể tìm cách “ phản công “, đối trọng với Trung cộng , bằng cách tiết lập khu bảo tồn riêng tại những vùng tranh chấp, hoặc gây áp lực để tạo ra khu vực bảo tồn chung, hoặc thực hiện các nghiên cứu khoa học, công bố thực trạng hệ sinh thái biển. Nạn nhân cuối cùng trong các cuộc tranh chấp này chính là hệ sinh thái biển, bị biến thành công cụ chính trị.

Chiến lược “xanh hóa” của Trung Quốc ở Biển Đông, hay còn gọi là “bành trướng xanh”, là một chiến thuật đa diện kết hợp giữa xây dựng đảo nhân tạo, quân sự hóa, kinh tế (thủy sản, năng lượng, “Vành đai và Con đường”) và luật pháp quốc tế để củng cố yêu sách chủ quyền phi pháp (Đường 9-đoạn) trên Biển Đông, tạo thực tế trên thực địa (hay còn gọi là “vùng xám”), biến biển thành “sân trong” của mình, đồng thời che đal bở mục đích quân sự hóa và kiểm soát các tuyến đường biển quan trọng, thách thức luật pháp quốc tế và các nước láng giềng như Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei.