V/v truy tố ông Nguyễn Văn Đài về tội “Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” theo khoản 2 Điều 117 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)

 

Kính gửi:

* Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao;

* Tòa án Nhân dân Tối cao;

* Các cơ quan chức năng liên quan;

* Nhân dân Việt Nam và công luận quốc tế.

 

Tôi, Nguyễn Văn Đài, sinh ngày 06 tháng 05 năm 1969, nguyên quán: Hưng Yên, Việt Nam; hiện đang cư trú tại Cộng hòa Liên bang Đức (đã được cấp quy chế tị nạn chính trị và thường trú hợp pháp tại đây từ năm 2018); là luật sư nhân quyền, nhà hoạt động dân chủ, và là người sáng lập Hội Anh Em Dân Chủ. 

Vào ngày 09 tháng 12 năm 2025, Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao đã ban hành Cáo trạng số 02/CT-VKSTC-V1 truy tố tôi về tội danh nêu trên, dựa trên các hoạt động mà tôi đã thực hiện trong việc bảo vệ quyền con người, phê phán tham nhũng và thúc đẩy dân chủ tại Việt Nam. Cáo trạng này dựa trên Quyết định truy nã số 1643/QĐTN-ANĐT-P3 ngày 05 tháng 12 năm 2025 của Cơ quan An ninh Điều tra Bộ Công an. 

Tôi xin long trọng phản bác toàn bộ cáo trạng này, coi đây là một hành vi vi phạm nghiêm trọng quyền con người, vi hiến và trái với các cam kết quốc tế của Nhà nước Việt Nam. Dưới đây là các lập luận cụ thể, dựa trên pháp luật Việt Nam, các nguyên tắc pháp lý quốc tế và sự thật khách quan về hoạt động của tôi.

 I CƠ SỞ PHÁP LÝ CỦA PHẢN BÁC

  1. Vi phạm Điều 25 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013: Hiến pháp Việt Nam – văn bản pháp lý cao nhất của quốc gia – tại Điều 25 quy định rõ ràng: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định.” Các hoạt động của tôi, bao gồm việc viết bài, phát biểu, và chia sẻ tài liệu trên các nền tảng công khai (như Facebook, Twitter/X, và các diễn đàn quốc tế), hoàn toàn nằm trong khuôn khổ quyền tự do ngôn luận và báo chí. Tôi đã đại diện cho người dân Việt Nam lên án tham nhũng của các quan chức cấp cao (ví dụ: phê phán hành vi tham ô của một số lãnh đạo), chỉ trích các chính sách lừa dối nhân dân và kêu gọi thực thi dân chủ thực sự. Những hành động này không phải là “tuyên truyền chống Nhà nước” mà là thực hiện quyền phê phán chính sách, giám sát quyền lực – một phần không thể thiếu của quyền tự do ngôn luận. Cáo trạng đã cố tình diễn giải sai lệch các hoạt động ôn hòa của tôi thành “chống Nhà nước”, trong khi Hiến pháp không cấm phê phán chính quyền. Nếu cáo trạng này được chấp nhận, nó sẽ phủ nhận hoàn toàn Điều 25 Hiến pháp, biến quyền tự do ngôn luận thành đặc quyền của những người ủng hộ chính quyền mà thôi.

 

  1. Vi phạm các công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên: Việt Nam đã tham gia Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị (ICCPR) năm 1982, tại Điều 19 quy định: “Mọi người đều có quyền tự do biểu đạt; quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt mọi loại thông tin và ý kiến, bất kể biên giới, dưới hình thức miệng, viết, in ấn, nghệ thuật hoặc qua bất kỳ phương tiện truyền thông nào khác theo lựa chọn của mình.” Các hoạt động của tôi chỉ là biểu đạt ý kiến chính trị ôn hòa, không kêu gọi bạo lực, lật đổ bằng vũ lực, mà nhằm thúc đẩy đối thoại và cải cách. Tòa án Nhân quyền Liên Hợp Quốc (UN Human Rights Committee) đã nhiều lần khẳng định rằng phê phán chính quyền, kể cả chỉ trích gay gắt, là quyền cơ bản và không thể bị hình sự hóa. Việt Nam, với tư cách thành viên Liên Hợp Quốc, phải tuân thủ các tiêu chuẩn này. Việc truy tố tôi vi phạm trực tiếp các cam kết quốc tế, làm tổn hại uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Hơn nữa, Việt Nam là thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và đã ký Tuyên ngôn Nhân quyền ASEAN năm 2012, khẳng định quyền tự do biểu đạt. Cáo trạng này đi ngược lại các nguyên tắc khu vực và toàn cầu về nhân quyền.

 

  1. Cáo trạng thiếu cơ sở chứng cứ và mang tính chính trị: Cáo trạng cáo buộc tôi “làm, tàng trữ, phát tán tài liệu chống Nhà nước”, nhưng không đưa ra bằng chứng cụ thể về hành vi gây hại thực tế cho an ninh quốc gia. Các tài liệu của tôi (như bài viết về tham nhũng của quan chức Tô Lâm, phê phán chính sách độc đảng, hoặc kêu gọi tự do dân chủ) đều dựa trên sự thật, được công khai và nhằm mục đích xây dựng xã hội tốt đẹp hơn. Không có bằng chứng nào cho thấy chúng gây rối loạn xã hội, kích động bạo lực hoặc đe dọa an ninh. Trên thực tế, các hoạt động của tôi thay mặt nhân dân Việt Nam đấu tranh chống lại bất công:

* Phê phán tham nhũng của các quan chức đầy quyền lực, như trường hợp Tô Lâm và các vụ bê bối tài chính lớn, nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia.

* Lên án chính sách lừa dối nhân dân, như việc duy trì độc đảng toàn trị dưới Điều 4 Hiến pháp, vốn mâu thuẫn với tinh thần dân chủ của Hiến pháp.

* Đại diện cho người dân đòi hỏi quyền tự do dân chủ, tôn giáo, và nhân quyền – những quyền mà Hiến pháp Việt Nam đã công nhận nhưng chưa thực thi. Nếu phê phán chính quyền là “chống Nhà nước”, thì bất kỳ công dân nào cũng có thể bị truy tố, dẫn đến một xã hội độc tài nơi tự do ngôn luận chỉ là hình thức.

 

 II BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ THỰC TẾ HOẠT ĐỘNG CỦA TÔI

Tôi từng bị kết án 15 năm tù năm 2018 về tội “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền” theo Điều 79 (nay là Điều 109) Bộ luật Hình sự, nhưng đã được trả tự do và tị nạn tại Đức nhờ sức ép quốc tế. Kể từ đó, tôi tiếp tục hoạt động ôn hòa từ nước ngoài, không tham gia bất kỳ tổ chức vũ trang hay bạo lực nào. Các bài viết của tôi trên mạng xã hội (như bản “Cáo trạng đối với chế độ độc tài toàn trị của đảng cộng sản Việt Nam” đăng ngày 20/08/2025) là lời kêu gọi cải cách dân chủ, không phải lật đổ. Việc truy tố vắng mặt tôi – một người đang sống hợp pháp tại Đức – là vi phạm nguyên tắc xét xử công bằng (Điều 14 ICCPR) và có thể bị coi là kích động bắt cóc hoặc vi phạm chủ quyền Đức. Chính quyền Việt Nam biết rõ địa chỉ của tôi tại Berlin nhưng vẫn công bố lệnh truy nã với thông tin sai lệch, chứng tỏ cáo trạng mang tính chính trị hơn là pháp lý.

 

III YÊU CẦU

Dựa trên các lập luận trên, tôi yêu cầu:

  1. Hủy bỏ ngay lập tức Cáo trạng số 02/CT-VKSTC-V1 và Quyết định truy nã số 1643/QĐTN-ANĐT-P3, vì chúng vi hiến và trái pháp luật quốc tế.
  2. Công nhận quyền tự do ngôn luận của tôi và mọi công dân Việt Nam theo Hiến pháp và các công ước quốc tế.
  3. Mở đường cho đối thoại dân chủ thực sự, bao gồm xóa bỏ Điều 4 Hiến pháp để cho phép đa đảng và tổng tuyển cử tự do.
  4. Bồi thường danh dự và thiệt hại cho tôi do các hành vi truy tố bất hợp pháp trước đây và hiện tại.

Tôi sẵn sàng tham gia bất kỳ phiên tòa online công khai nào để bảo vệ lập luận của mình, và kêu gọi cộng đồng quốc tế giám sát vụ việc này. Lịch sử sẽ phán xét những ai chà đạp quyền con người dưới danh nghĩa “an ninh quốc gia”.

Đức Quốc, ngày 10 tháng 12 năm 2025 Nguyễn Văn Đài, Luật sư nhân quyền, Nhà hoạt động dân chủ. 

 

 ***

 

Viện KSND tối cao kêu gọi Nguyễn Văn Đài đầu thú, xác định có 2 tiền án

 

Thông báo kêu gọi đầu thú của Viện KSND tối cao thể hiện Nguyễn Văn Đài có 2 tiền án, đều về hành vi chống phá nhà nước, lần gần nhất là năm 2018, bị phạt 15 năm tù và 5 năm quản chế.

Ngày 9/12, VKSND tối cao đã ban hành Cáo trạng số 02, truy tố bị can Nguyễn Văn Đài về tội “Làm, tàng trữ, phát tán, tuyên truyền thông tin, tài liệu, nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” quy định tại khoản 2 Điều 117 Bộ luật Hình sự.

Căn cứ Điều 141, Điều 142 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Viện KSND tối cao yêu cầu bị can Nguyễn Văn Đài đến trụ sở cơ quan công an, viện kiểm sát hoặc cơ quan đại diện Việt Nam tại nước ngoài đầu thú để hưởng chính sách khoan hồng và thực hiện quyền bào chữa theo quy định.

Bị can Nguyễn Văn Đài từng bị phạt tù nhưng được tạm hoãn thi hành án.

Về nhân thân, cáo trạng xác định Nguyễn Văn Đài sinh năm 1969 ở Hưng Yên. Nơi cư trú trước khi xuất cảnh tại Phòng 302, Z8 Khu tập thể Bách Khoa, phường Bạch Mai, Hà Nội và hiện nay đang ở Cộng hòa Liên bang Đức.

Bị can Nguyễn Văn Đài hiện vẫn có quốc tịch Việt Nam và mang tôn giáo Tin Lành.

Bị can Nguyễn Văn Đài có 2 tiền án, gồm năm 2007 bị TAND tối cao tại Hà Nội xử phạt 4 năm tù và 4 năm quản chế về tội “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” theo Điều 88 BLHS năm 1999 (đã chấp hành xong Bản án nhưng chưa được xóa án tích).

Năm 2018, Nguyễn Văn Đài bị TAND TP Hà Nội xử phạt 15 năm tù và 05 năm quản chế về tội “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” theo Điều 79 BLHS năm 1999. Bản án này có hiệu lực pháp luật nhưng Nguyễn Văn Đài được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù.