Việt Nam siết chặt kiểm soát truyền thông

Quốc Hội Việt Nam ngày 10/12/2025 đã thông qua dự luật yêu cầu các nhà báo phải tiết lộ nguồn tin trong một số trường hợp nhất định, đồng thời cấm phát tán thông tin có nội dung bị xem là « chống nhà nước » trên mạng.

Ảnh minh họa: Trên đường phố Hà Nội, Việt Nam, ngày 12/08/2025.  AP – Hau Dinh

 

Theo luật báo chí sửa đổi, có hiệu lực từ tháng 7/2025, kể từ nay, người đứng đầu các cơ quan điều tra thuộc bộ Công An hay các trưởng phòng điều tra cấp tỉnh, trong « mục đích điều tra, truy tố và xét xử tội phạm », có thể yêu cầu, bằng văn bản, các nhà báo tiết lộ nguồn tin. Theo luật hiện hành, chỉ có thẩm phán mới có quyền đưa ra yêu cầu như vậy.

Quốc Hội Việt Nam còn thông qua luật an ninh mạng, mở rộng phạm vi các hoạt động bị coi là « chống lại nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ». Việc đăng tải hoặc phát tán các thông tin trực tuyến bị xem là « xúc phạm quốc gia, các nhà lãnh đạo, anh hùng dân tộc và các nhân vật nổi bật » hoặc « phá hoại đoàn kết dân tộc và xúc phạm tôn giáo » cũng sẽ bị coi là bất hợp pháp.

Theo văn bản Reuters tham khảo được, luật mới, dự kiến sẽ có hiệu lực vào tháng 3/2026, quy định thêm rằng các thông tin về lịch trình công việc ở nước ngoài của các nhà lãnh đạo, các khoản bồi thường của nhà nước và các thỏa thuận giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế được vào xếp diện bí mật nhà nước. 

Bà Aleksandra Bielakowska, thuộc Tổ chức Phóng viên Không Biên Giới (RSF), chi nhánh châu Á, hôm qua, trong thông cáo gởi đến các hãng tin AFP của Pháp và Reuters của Anh, đã chỉ trích cải cách này là « một công cụ đàn áp mới » nhằm « bịt miệng báo chí và trấn áp bất đồng chính kiến ».

Luật mới này khiến nhiều nhà báo tại Việt Nam, hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế và xã hội, lấy làm lo lắng, và cho biết rằng họ sẽ phải « rất cẩn thận trong việc đưa tin, vì ranh giới giữa đúng và sai ở đây là rất mơ hồ ».

Theo RSF, Việt Nam xếp hạng 173 trên tổng số 180 nước về chỉ số tự do báo chí thế giới. Hiện ở Việt Nam có ít nhất 28 nhà báo bị giam giữ « trong những điều kiện vô nhân đạo, chỉ vì làm công việc của mình », theo cáo buộc của RSF.

 

RFI (11.12.2025)

 

 

 

 

Nhân quyền tại Việt Nam

Thông tin tổng hợp được từ báo chí Việt Nam thì Việt Nam tiếp tục thuộc nhóm quốc gia có mức phát triển con người cao với Chỉ số Phát triển con người (HDI – Human Development Index) năm 2023 đạt 0,766, xếp thứ 93 trên 193 quốc gia và vùng lãnh thổ. Trong hơn 3 thập kỷ (1990-2023), chỉ số này đã tăng tới 53,5%, phản ánh nỗ lực bền bỉ trong việc cải thiện y tế, giáo dục và thu nhập cho người dân. Trong lĩnh vực quyền trẻ em, Việt Nam là quốc gia châu Á đầu tiên phê chuẩn Công ước Quyền trẻ em (CRC). Sau 35 năm triển khai, tỷ lệ tử vong trẻ em dưới 5 tuổi đã giảm từ 58,9‰ (phần ngàn) vào năm 1990, xuống còn 16,9‰ vào năm 2024.

“Đây chính là sự ghi nhận cao nhất của cộng đồng quốc tế đối với chính sách, chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước… đặc biệt trong việc bảo đảm quyền con người”. (theo Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Đặng Hoàng Giang).

Trong chiều hướng ngược lại, theo tổ chức phi chính phủ quốc tế Human Rights Watch có trụ sở tại New York, chuyên điều tra và báo cáo về các vụ lạm dụng nhân quyền trên toàn thế giới thì: “Chính quyền Việt Nam đè nén các quyền tự do cơ bản của người dân, như tự do biểu đạt, tự do lập hội, nhóm họp ôn hòa, tự do đi lại và tự do tôn giáo. Các công đoàn, tổ chức nhân quyền, báo chí độc lập và các đảng phái chính trị vẫn bị cấm thành lập và hoạt động. Ngành tư pháp không được độc lập, và các tòa án thường xuyên phủ nhận quyền được xét xử công bằng và đúng trình tự của các bị cáo. Công an rà soát mạng internet và bắt giữ những người họ cho là mối nguy đối với vị thế độc tôn quyền lực của Đảng Cộng sản” (hết trích) (1).

Nhân quyền, nói nôm na là quyền con người, đây là những quyền cơ bản, tự nhiên và phổ quát mà mọi người đều có, không phụ thuộc vào quốc tịch, giới tính, dân tộc hay bất kỳ địa vị nào khác. Chúng bao gồm quyền sống, tự do, bình đẳng, phẩm giá, các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hoá được pháp luật quốc tế và quốc gia công nhận, bảo vệ và thực thi.

Tại Việt Nam, quyền được sống, quyền tự do và an ninh cá nhân (được ghi nhận tại Điều 3 Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền 1948) luôn được xem là quyền cơ bản nhất. Hiến pháp năm 2013, tại Điều 14 và Điều 20, đã khẳng định quyền con người chỉ bị hạn chế trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia; đồng thời mọi người đều có quyền bất khả xâm phạm về thân thể.

Xét trên bình diện chung, nếu một công dân bình thường, tức không có bất kỳ vấn đề gì xảy ra với công dân đó, những quyền cơ bản của con người gần như được đảm bảo. Tuy nhiên, nếu như có vấn đề cần giải quyết, thì liệu rằng mọi quyền cơ bản vẫn còn được đảm bảo? 

Đơn cử ví dụ, quyền được biết của công dân là quyền cơ bản của mỗi người, nhất là công dân đó lại là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án. Thế nhưng, thực tế trong quá khứ cũng còn đó trường hợp, khi giải quyết, công dân được nghiễm nhiên bỏ qua, không biết vụ việc đã được mở ra cũng như đã được tiến hành; để rồi được mời lên ký vào một tờ giấy vắng mặt khi mọi thứ đã xong xuôi.

Đó là chưa kể đến, ở Việt Nam cũng tồn tại hai gọng kìm khiến không ít người e dè, đó là Điều 117 BLHS 2015 (sửa đổi 2017) nói về tội làm, tàng trữ, phát tán thông tin chống Nhà nước, còn Điều 331 BLHS nói về tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích Nhà nước, tổ chức, cá nhân; cả hai đều được sử dụng để xử lý các hành vi bị coi là chống đối, tạo ra nhiều tranh luận về việc áp dụng pháp luật và bảo vệ quyền tự do. Nhẹ thì phạt hành chính với con số 7 triệu rưỡi, nặng thì sẽ đối diện với mức án giam.

Báo chí – cơ quan được xem như là tiếng nói của người dân; một số những người dân bị áp bức, bất công sẽ tìm đến phòng bạn đọc để “gõ cửa”, trình bày sự việc cũng như tâm tư, nguyện vọng của mình. Và rồi bằng sức mạnh của truyền thông, được pháp luật bảo hộ, báo chí xuống tận nơi để tìm hiểu, điều tra, lên tiếng lấy lại công bằng của người dân – từ quy hoạch báo chí cho đến công cuộc “sắp xếp lại giang sơn”, tiếng nói báo chí vốn dĩ đã thu hẹp giờ đây lại càng hẹp hơn.

Đó là chưa kể đến, luôn có một bộ phận sẵn sàng bắt lỗi, nhằm phạt vi phạm của báo chí, từ phạt tiền cho đến tạm đóng cửa trong một khoảng thời gian nhất định. Không những thế, với những trang web không có giấy phép báo chí mà đăng bài viết có nội dung mang “hơi thở” của báo chí, là cũng chịu chung số phận bị phạt. Một số cây bút phản biện ôn hoà, mang tính xây dựng như trường hợp ông Phạm Chí Dũng thì bị kết án “có nội dung tuyên truyền, xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân, bịa đặt, xâm phạm uy tín của Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.

Tóm lại, bức tranh nhân quyền ở Việt Nam, nếu được nhìn tổng quan, mọi thứ có vẻ ổn nhưng nếu đi sâu hơn vào từng trường hợp cụ thể, nhiều thứ, dường như, còn cần phải xem xét lại. 

Lynn Huỳnh 

Tham khảo:
(1): https://www.hrw.org/vi/world-report/2025/country-chapters/vietnam

 VNTB (11.12.2025)

 

 

 

 

Vợ góa cụ Lê Đình Kình làm đơn tố cáo khẩn cấp việc vu cáo chồng bà là ‘cường hào-ác bá’

Trong ngày 14 tháng 9, bà Dư Thị Thành, vợ góa của cụ Lê Đình Kình, người bị lực lượng chức năng bắn chết tại nhà vào rạng sáng ngày 9 tháng 1 vừa qua, công khai đơn tố cáo khẩn cấp.

Đơn được gửi đến ba vị lãnh đạo Việt Nam hiện nay gồm ông Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc, bà Chủ tịch Quốc hội Nguyễn thị Kim Ngân và ông Bộ trưởng Công an Tô Lâm.

Nội dung đơn tố cáo đích danh ông Tô Ân Xô, Thiếu tướng, phát ngôn nhân của Bộ Công an Việt Nam khi gọi ông Lê Đình Kình là ‘địa chủ, cường hào mới’.

 

Theo bà Dư Thị Thành thì khi người phát ngôn Bộ Công an Việt Nam có cáo buộc như vừa nêu thì ông Lê Đình Kình chưa hề bị khởi tố với bất kỳ tội danh nào. Ngoài ra cho đến khi bị lực lượng chức năng bắn chết ông Kình cũng chưa hề có bất cứ tiền án, tiền sự nào.

Bà Dư thị Thành nêu rõ vào khi Đơn Tố cáo Tội Giết người mà bà gửi đến các cơ quan thẩm quyền vào ngày 3 tháng 3 vừa qua đến nay vẫn chưa được giải quyết thì ông Thiếu tướng Tô Ân Xô lại xúc phạm đến chồng bà.

Bà Dư Thị Thành yêu cầu ba vị lãnh đạo gồm Thủ tướng, Chủ tịch Quốc hội và Bộ trưởng Công an Việt Nam hiện đương chức hãy xác minh, làm rõ thái độ của ông Tô Ân Xô là vu khống đối với người đã khuất. Do đó ông Tô Ân Xô phải chịu hoàn toàn trách nhiệm trước pháp luật về phát ngôn bị cho là không có căn cứ đó.

Ngoài ra bà Dư Thị Thành còn đề nghị Bộ Công an Việt Nam giải thích cho tất cả mọi người khái niệm ‘địa chủ, cường hào’ thời đại hiện nay bao gồm những yếu tố gì.

 

Vietvalley.com (11.12.2025)

 

 

 

 

 

Việt Nam sửa luật: Mở rộng phạm vi bí mật nhà nước, công an có quyền yêu cầu báo chí tiết lộ nguồn tin

Nguồn hình ảnh,Getty Images Chụp lại hình ảnh,Luật sửa đổi cho phép công an yêu cầu cơ quan báo chí tiết lộ nguồn tin

 

Quốc hội Việt Nam hôm 10/12 đã thông qua các cải cách luật về báo chí và bí mật nhà nước, điều mà các nhà hoạt động vì tự do báo chí cho rằng sẽ khiến các nhà báo khó bảo vệ danh tính nguồn tin hơn và làm tăng rủi ro pháp lý khi đưa tin, theo Reuters.

“Chúng tôi vô cùng phẫn nộ trước việc siết chặt hơn nữa khung pháp lý điều chỉnh tự do báo chí ở Việt Nam,” Aleksandra Bielakowska, Tổ chức Phóng viên Không Biên giới, nói hôm thứ Tư.

Những thay đổi này sẽ khiến Việt Nam trở thành “một nơi gần như không thể để các nhà báo đưa tin một cách tự do,” bà Bielakowska nói.

Phóng viên Không Biên giới xếp Việt Nam ở vị trí thứ 173 trên 180 quốc gia trong danh sách chỉ số tự do báo chí thế giới.

Chính phủ Việt Nam chưa đưa ra phản hồi ngay lập tức trước yêu cầu bình luận.

Các nhà lập pháp Việt Nam đã thông qua Luật Báo chí sửa đổi, có hiệu lực từ tháng 7/2026, theo đó các nhà báo sẽ phải tiết lộ nguồn tin khi có yêu cầu từ cơ quan chức năng về việc điều tra bất kỳ tội phạm nào, theo văn bản sửa đổi mà Reuters đã đọc.

Nguồn hình ảnh,Getty Images Chụp lại hình ảnh,Báo chí Việt Nam chịu sự quản lý nghiêm ngặt của Đảng Cộng sản

 

Theo Luật Báo chí hiện hành, nhà báo chỉ có thể bị buộc phải tiết lộ nguồn tin trong các cuộc điều tra “tội phạm rất nghiêm trọng”, “đặc biệt nghiêm trọng”.

Luật báo chí sửa đổi sẽ cho phép Bộ Công an và công an địa phương ra lệnh tiết lộ nguồn tin, trong khi hiện nay chỉ có thẩm phán (và viện trưởng viện kiểm sát) mới có quyền làm điều đó.

 

Cụ thể, Điều 38 của Luật Báo chí 2016 nêu: “Cơ quan báo chí và nhà báo có quyền và nghĩa vụ không tiết lộ người cung cấp thông tin, trừ trường hợp có yêu cầu bằng văn bản của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân, Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh và tương đương trở lên cần thiết cho việc điều tra, truy tố, xét xử tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng.”

Luật sửa đổi vừa được thông qua quy định cơ quan báo chí và nhà báo có quyền và nghĩa vụ không tiết lộ người cung cấp thông tin, trừ trường hợp có yêu cầu bằng văn bản của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân, Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh và tương đương trở lên, Thủ trưởng Cơ quan điều tra Bộ Công an, Thủ trưởng Cơ quan điều tra Công an cấp tỉnh phục vụ cho công tác điều tra, truy tố, xét xử tội phạm.

Việc sửa đổi luật diễn ra trong bối cảnh những tháng gần đây Việt Nam – một quốc gia do Đảng Cộng sản lãnh đạo – đã gia tăng các biện pháp hạn chế, như thu hồi hộ chiếu của phóng viên nước ngoài (bao gồm một nhà báo của BBC), cấm phát hành một số báo in của tạp chí The Economist, tạm thời đình chỉ ứng dụng nhắn tin Telegram và mở rộng vai trò của Bộ Công an.

 

Trong khi báo chí trong nước nằm dưới sự kiểm soát của nhà nước, các nhà báo nước ngoài cũng phải đối mặt với việc bị giám sát, phải xin giấy phép cho mỗi chuyến đi và bị hạn chế tiếp cận các sự kiện báo chí.

Bà Bielakowska cho biết hiện có ít nhất 28 nhà báo đang bị giam giữ ở Việt Nam, “thường trong các điều kiện vô nhân đạo, chỉ vì họ làm công việc của mình”.

Trong một động thái khác, các nhà lập pháp cũng đã sửa đổi luật về bí mật nhà nước (Luật Bảo vệ bí mật nhà nước), mở rộng các loại thông tin được bảo vệ.

Luật mới, Reuters đã xem xét, dự kiến có hiệu lực vào tháng Ba, quy định thêm các thông tin được coi là bí mật nhà nước, bao gồm chi tiết về các chương trình công tác nước ngoài của lãnh đạo, việc bồi thường của nhà nước và các thỏa thuận giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế.

Việc tiết lộ bí mật nhà nước hiện vốn đã bị xử phạt bằng tiền hoặc án tù.

“Việc sửa đổi này trao cho chính quyền thêm một công cụ đàn áp nữa đối với một môi trường báo chí vốn đã tan nát,” bà Bielakowska nói.

 

BBC (10.12.2025)

 

 

 

 

Tình hình Nhân quyền tại Việt Nam: Mâu thuẫn giữa Cam kết và Thực tiễn

Ngày 14/10/2025, Việt Nam được tái cử vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc (UNHRC). Bộ Ngoại giao Việt Nam cho rằng kết quả này phản ánh “sự tín nhiệm” của cộng đồng quốc tế đối với cam kết bảo vệ nhân quyền của Việt Nam.

Tuy nhiên, các tổ chức nhân quyền quốc tế nhận định cuộc bầu chọn này thực chất không cạnh tranh: hầu hết các nước ứng cử gần như chắc chắn trúng cử, bất kể hồ sơ nhân quyền yếu kém. Trong số 14 ứng cử viên, Việt Nam bị xếp vào nhóm “không đủ tiêu chuẩn” cùng Ai Cập, Iraq, Pakistan và Angola. (1)

 

Thực trạng nhân quyền tại Việt Nam hiện nay cho thấy một khoảng cách lớn giữa cam kết quốc tế và chính sách kiểm soát chính trị trong nước. 

  1. Tình trạng nhân quyền: Thành tựu kinh tế – xã hội đối lập với hạn chế dân sự – chính trị

Việt Nam thường nhấn mạnh các thành tựu về giảm nghèo, giáo dục và quyền kinh tế – xã hội để củng cố hình ảnh tại UNHRC.

Ngược lại, các tổ chức quốc tế liên tục chỉ ra các vi phạm nghiêm trọng đối với quyền dân sự và chính trị, gồm:

  • Hạn chế tự do ngôn luận và lập hội

Nhà nước sử dụng các điều luật an ninh mơ hồ (như Điều 117 và Điều 331 Bộ luật Hình sự) để bắt giữ nhà báo công dân, nhà hoạt động và người bất đồng ôn hòa, quy kết họ là “phản động”.

  • Thiếu độc lập tư pháp

Tòa án chịu sự chi phối của Đảng, dẫn đến các phiên tòa thiếu công bằng và tình trạng giam giữ tùy tiện.

Việt Nam cho rằng các hạn chế này nhằm bảo đảm “ổn định quốc gia”, nhưng giới quan sát quốc tế xem đó là biện pháp duy trì sự độc quyền chính trị.

 

  1. Các khuyến nghị quan trọng của UPR đối với Việt Nam

Những khuyến nghị quan trọng nhất trong Cơ chế Rà soát Định kỳ Phổ quát (UPR) đặt ra cho VN

  • Cải cách pháp luật, đưa luật nhân quyền phù hợp chuẩn mực quốc tế.
  • Bảo đảm quyền dân sự – chính trị: tự do báo chí, ngôn luận, lập hội, hội họp và tôn giáo.
  • Giảm hoặc bãi bỏ án tử hình.
  • Xóa bỏ các điều luật mơ hồ về an ninh, đặc biệt Điều 117, 331.
  • Bảo vệ nhóm dễ bị tổn thương: dân tộc thiểu số, tôn giáo độc lập, phụ nữ, trẻ em, người lao động.
  • Hợp tác đầy đủ với cơ chế nhân quyền của Liên Hợp Quốc, minh bạch báo cáo.

Những khuyến nghị quan trọng bị Việt Nam bác bỏ:

  • Sửa đổi hoặc bãi bỏ Điều 117 và 331.
  • Chấm dứt bắt giữ tùy tiện và trả tự do cho tù nhân lương tâm.
  • Công nhận báo chí độc lập và tự do Internet theo chuẩn quốc tế.
  • Công nhận đầy đủ quyền tôn giáo cho các nhóm chưa đăng ký.
  • Thành lập cơ quan nhân quyền độc lập.
  • Xem xét tiến tới bãi bỏ án tử hình.

Việc từ chối các khuyến nghị này cho thấy Việt Nam không sẵn sàng thay đổi ở những lĩnh vực liên quan trực tiếp đến quyền lực chính trị.

 

  1. Nguyên nhân dẫn đến sự trì trệ và phủ nhận

(1) Khác biệt trong quan niệm về nhân quyền

  • Việt Nam ưu tiên quyền tập thể (ổn định, phát triển kinh tế) hơn quyền cá nhân.
  • Các quyền dân sự – chính trị bị xem là có thể giới hạn vì “an ninh quốc gia”.
  • Quan điểm “nhân quyền không phải là phổ quát” vẫn phổ biến, coi những chỉ trích từ phương Tây là “can thiệp nội bộ”.

(2) Bảo vệ chế độ chính trị

  • Các khuyến nghị quốc tế đụng đến những lĩnh vực có nguy cơ hình thành đối lập chính trị: tự do báo chí, lập hội, đa nguyên tư tưởng.
  • Nới lỏng các quyền này bị xem là rủi ro cao đối với sự tồn tại của chế độ độc đảng.

(3) Tiếp nhận chọn lọc

  • Việt Nam sẵn sàng chấp nhận các khuyến nghị kỹ thuật hoặc xã hội (quyền người khuyết tật, bình đẳng giới).
  • Nhưng từ chối các khuyến nghị liên quan đến cải cách thể chế.
  • Việc tham gia UNHRC phần nhiều mang tính ngoại giao, nhằm cải thiện hình ảnh hơn là thúc đẩy cải cách thực chất.

 

  1. Những lĩnh vực cải thiện chậm

Dù trì trệ, Việt Nam thỉnh thoảng có thay đổi nhỏ:

  • Cải cách luật kinh tế để phục vụ hội nhập.
  • Một số cải thiện về quyền xã hội, đặc biệt quyền của phụ nữ và người khuyết tật.

Tuy nhiên, các cải thiện này không chạm đến cốt lõi của vấn đề nhân quyền: quyền tự do căn bản của công dân.

 

Kết luận

Việt Nam vẫn thể hiện sự đối lập rõ rệt giữa hình ảnh nhân quyền trên trường quốc tế và thực tiễn kiểm soát quyền dân sự – chính trị trong nước.
Những khuyến nghị mang tính nền tảng nhất của UPR về tự do báo chí, lập hội, tôn giáo và cải cách luật an ninh đều bị từ chối, khiến quá trình cải thiện nhân quyền khó có tiến triển đáng kể.

 

Để thúc đẩy thay đổi, cộng đồng quốc tế cần tiếp tục:

  • Gắn nhân quyền với lợi ích kinh tế, và
  • Duy trì áp lực nhất quán thông qua các cơ chế của Liên Hợp Quốc và quan hệ song phương.

 

VNTB (09.12.2025)