„một chế độ sau từng đó năm khai sinh và sau nửa thế kỷ thống nhất có thực sự trưởng thành? Có thực sự thẳng thắn trong việc nhìn lại những điều đã cũ để nghiêm túc sửa mình? Có thực sự làm đúng tinh thần mà bản Tuyên ngôn Độc lập năm đó đã nêu cao?“

 

Đan Thanh

Nguồn ảnh: Linh Phan/Báo Nhân Dân. Đồ họa: Thiên Tân/Luật Khoa.

 

Năm 2025 là một năm đặc biệt khi cùng một năm diễn ra hai ngày lễ kỷ niệm trọng đại của đất nước – 50 năm ngày thống nhất đất nước và 80 năm ngày Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập. Những dịp lễ lớn ấy tưởng chỉ là ngày vui, là lễ hội, thế nhưng nhiều nơi lại mang đầy không khí chia rẽ, phân biệt, với những cảnh chỉ trích, đấu tố nhau. Và rồi ngấp nghé đến cuối năm, cuộc cãi vã ồn ào quanh cuốn tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh” lại lần nữa khiến không khí đấu tố bùng nổ.

Chính những diễn biến ấy đã khiến năm 2025 là một dịp đặc biệt mà bộ máy tuyên truyền được hoạt động hết công suất. Tại đó, người ta lồng ghép những trang sử cách mạng được kể lại đầy hào hùng vào trong những luận điệu đấu tố mang màu sắc sinh sát, chia rẽ, như để làm đẹp thêm cho bức chân dung chế độ. 

Năm 2025, vì thế, âu cũng là một dịp hay để mọi người trong nước cùng nhìn lại, xem xem một chế độ sau từng đó năm khai sinh và sau nửa thế kỷ thống nhất có thực sự trưởng thành? Có thực sự thẳng thắn trong việc nhìn lại những điều đã cũ để nghiêm túc sửa mình? Có thực sự làm đúng tinh thần mà bản Tuyên ngôn Độc lập năm đó đã nêu cao?

 

50 năm thống nhất đất nước

Một nửa thế kỷ đã trôi qua sau biến động lịch sử năm 1975, nhưng có lẽ vết thương chia đôi dân tộc vẫn chưa thể nguôi ngoai, khi hai bên vẫn giữ những niềm tin khác nhau, khi “bên thắng cuộc” không nguôi đốt tiền cho bộ máy tuyên truyền ca vang chiến thắng và gán bản án “nợ máu đồng bào” cho bên còn lại. [1]

Ký ức về cuộc chiến không thể thống nhất bằng ngày kỷ niệm hay những thứ lịch sử được viết như cáo trạng, cũng như khi mỗi bên đều giữ những hệ ý thức khác nhau về giá trị tự do, về tổn thương tập thể và những diễn ngôn chính trị riêng biệt. Ký ức về cuộc chiến mãi chẳng thể thống nhất khi bên thắng cuộc được viết lịch sử theo ý mình – được phép chọn phần nào để nhớ và phần nào để quên; còn bên thua cuộc giữ lịch sử qua ký ức của đau thương truyền lại trong mỗi gia đình, qua nền văn hóa của cộng đồng hải ngoại, qua âm nhạc và văn chương.

Và rồi, trong cái ngày trọng đại của đất nước, một điệp khúc xưa cũ được nhắc lại – mang tên “hòa hợp, hòa giải dân tộc” – bởi Tổng Bí thư Tô Lâm. [2]

Nhưng rồi, thử nghĩ, có dân tộc nào thực sự hòa hợp được khi ngay trong chính dịp trọng đại đó, màu sắc đấu tố, truy bức những ai có suy nghĩ khác biệt vẫn còn đậm nét? Thứ tư duy địch – ta ấy vẫn được khắc sâu đến tận thời bình, dù đã kết thúc vai trò lịch sử của nó trong chiến tranh. 

Trong 50 năm ấy, đất nước ta không thể hòa giải, là bởi ba lý do sau:

Một, Việt Nam chưa từng có một tiến trình hòa giải chính thức và đúng nghĩa. 

Việt Nam có thống nhất, nhưng bên thắng cuộc chưa từng đưa tay ra với phía còn lại, cũng như chưa từng thừa nhận sai lầm đã gây ra với nhân dân miền Nam dẫn đến thảm kịch triệu người vượt biên rời bỏ quê hương. 

Bên thắng cuộc, sau bao nhiêu năm cũng chưa từng một lần thừa nhận tổn thất trong cuộc chiến đến từ cả mọi phía. Chưa từng có một cơ quan nào đứng ra hòa giải cho hai bên, tương tự như điều mà Ủy ban Sự thật và Hòa giải ở Nam Phi đã thực hiện. [3] Thiết nghĩ, ý nghĩa đích thực của hòa giải không phải nhằm làm cho tất cả mọi người đồng ý với nhau, mà nhằm làm cho mọi người không còn phải nói dối về quá khứ. 

Hai, sự độc quyền trong diễn giải lịch sử. 

Tiến trình hòa giải không thể diễn ra khi một bên không cho phép sự đa dạng về cách diễn giải lịch sử, mà chỉ ôm khư khư cách tuyên truyền có lợi cho bên mình và phủ nhận nỗi đau của bên còn lại. Không cách nào hòa giải nổi khi một phía chỉ cho phép loại diễn ngôn lịch sử mang tính phân định chánh-tà, trắng-đen, địch-ta, anh hùng-phản bội.

Ba, thế hệ sau không sống trong chiến tranh, nhưng thừa hưởng xung đột.

Một điều nghịch lý là, đại lễ kỷ niệm 50 năm thống nhất diễn ra khi những thế hệ thực sự sống qua cuộc chiến ấy gần như đã đi về cát bụi, nhưng chính những thế hệ sau lại có thể nói ra những câu chữ kinh khủng nhất để chia rẽ, đấu tố đồng bào mình. Thử hỏi rằng, thứ ngôn từ kinh khủng đó là được thốt ra từ tổn thương tâm lý của thế hệ cũ kể lại cho họ, từ sự phản ứng phòng vệ ký ức, hay từ những trang lịch sử cài cắm lòng hận thù từ trong trứng nước của người trẻ hậu chiến? 

Cuộc hòa giải dân tộc chỉ thực sự diễn ra khi thế hệ sau biết đặt ra câu hỏi: rằng có thực sự chỉ một bên hoàn toàn đúng và bên thua có hoàn toàn sai hay không?

Và rồi, 50 năm nhìn lại dân tộc Việt, có bao giờ ta thấy một đất nước mà hai tâm hồn, một đất nước với hai nhịp tim khác nhau, cái thứ khoảng cách tinh thần ấy sâu hơn cả một đường biên giới. 

Và rồi, 50 năm đã trôi qua với một vết rạn tinh thần dai dẳng. Chưa thể chưa thống nhất với nhau trong cách nói, nhưng cũng nào có bao giờ thống nhất với nhau trong cách nghe? 

Thế nào là thống nhất trong cách nói, cách nghe? Đó là khi người miền Bắc nói về thành tựu cách mạng, hãy để họ nói; và khi người miền Nam nói về tổn thương, mất mát, làm ơn xin cũng đừng đấu tố. 

 

80 năm tuyên ngôn độc lập

Hãy cùng đọc lại câu đầu tiên trong bản Tuyên ngôn Độc lập mà Hồ chủ tịch đã đọc ngày 2/9/1945:

“Hỡi đồng bào cả nước,

Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.”

Hồ Chí Minh lúc sinh thời đã từng phát biểu rất nhiều câu mạnh mẽ để phê phán thực dân Pháp, nhưng ngày nay, chế độ mà ông lập nên đã đối xử thế nào với những ý kiến khác biệt, những lời lẽ phản biện?.

Khi Trấn Thành khóc cho đồng nghiệp qua đời và bị Báo Công an nhân dân gán cho là một nốt trầm, một làn sóng công kích nổ ra, cùng vô vàn làn sóng đấu tố khác để tìm ra ai không chung bản hòa ca ái quốc với Đảng Cộng sản. Nhìn lại lịch sử đấu tranh cách mạng đã đưa đến sự kiện ngày 2/9 và ngẫm kỹ những dòng đầu của Tuyên ngôn Độc lập, có thể thấy, cách người ta đấu tố nhau thế kia đã và đang phản bội lại chính tinh thần của ngày Quốc khánh! 

Chẳng phải Hồ Chí Minh khi mở đầu bản tuyên ngôn đã quả quyết rằng tự do là quyền tạo hóa đã ban tặng, một quyền bất khả xâm phạm hay sao? Và lựa chọn của mỗi người muốn khóc hay cười chung với nhịp đập ngày Quốc khánh chẳng phải là tự do của họ?

 

Sau 80 năm, thử nhìn lại bản Tuyên ngôn Độc lập của Hồ chủ tịch:

“Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào.

Chúng thi hành những luật pháp dã man. Chúng lập ba chế độ khác nhau ở Trung, Nam, Bắc để ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản dân tộc ta đoàn kết.

Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu.

Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân.

Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược.

Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến tận xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều.

Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu.

Chúng giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng.

Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn, trở nên bần cùng.

Chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên. Chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn.”

Thưa rằng, ngày nay, về chính trị, nhân dân ta đã có “một chút tự do dân chủ nào” hay chưa? Khi hiện thực đằng sau câu nói “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra” là những cuộc hội nghị trung ương bị người ta giấu nhẹm? [4] Đó là chưa bàn về tự do biểu tình, tự do bầu cử, vốn hoàn toàn không có.

Ngày nay, nước ta liệu đã sạch bóng những chuyện “thi hành luật pháp dã man”“ngăn cản dân tộc ta đoàn kết”? Để trả lời, xin hãy nhìn cách chính quyền tuyên truyền hận thù chia rẽ dân tộc, nhìn vào thứ luật pháp ngày nay được diễn giải ra sao. Tự mỗi người ắt sẽ có đáp án cho riêng mình. 

Và rồi, nhà tù ở chính quyền ngày nay có giam cầm, tra tấn “người yêu nước thương nòi của ta” không? Câu trả lời nằm ở số phận của Phạm Đoan Trang, nhà báo Trương Huy San, luật sư Trần Đình Triển, anh nông dân Trịnh Bá Phương, v.v. [5][6][7][8]

Lại nữa, công an Việt Nam có từng tắm xã Đồng Tâm trong “bể máu”? [9] Và có không chuyện những thủy điện nhỏ đã “tắm” cả ngàn người dân trong nước lũ? [10]

Về kinh tế, liệu đã hết chuyện chính quyền “bóc lột dân ta đến tận xương tủy”? Thôi thì, câu hỏi này hãy để trải nghiệm của mỗi cá nhân, đơn vị tự trả lời lấy.

Sau 80 năm nhìn lại một chặng đường lịch sử, thử hỏi:

Có giây phút nào chính mỗi chúng ta đọc lại bản tuyên ngôn của Hồ chủ tịch và nhìn những gì xảy ra trên chính quê hương bây giờ, mà có được thứ cảm xúc “Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng”? 

Có giây phút nào trong dịp say men yêu nước của ngày Quốc khánh, nghĩ về việc Hồ chủ tịch còn được phép viết bài vạch trần tội ác của thực dân Pháp ngay trên chính tờ báo của nước Pháp, còn báo chí nước ta hiện giờ có bao giờ được phép nói về cái sai của chính quyền mình? [11]

Có giây phút nào trong lúc lên gân đấu tố chính đồng bào mình trong những dịp kỷ niệm lịch sử “hào hùng” của “cách mạng”, ta nghĩ về việc chính mình đang kéo lùi bánh xe lịch sử để đưa đất nước về thời kỳ đấu tố nổi danh mang tên “Cải cách ruộng đất” – một sai lầm mang tầm lịch sử gắn với Hồ Chí Minh? [12]

Có giây phút nào nghĩ đến những khẩu hiệu tự do, bình đẳng, độc lập, v.v. mà Hồ chủ tịch nhắc tới trong ngày Quốc Khánh, và nhìn lại xem ngày nay nó như thế nào rồi?

 

“Nỗi buồn chiến tranh” khép lại 2025

Cuộc đấu tố tác giả Bảo Ninh cùng cuốn tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh” nổ ra khi bầu không khí nặng mùi thuốc súng tưởng chừng đã nguôi ngoai sau hai sự kiện trọng đại trong năm. Cuộc đấu tố lần này, một lần nữa, tựa như một phép thử cho độ trưởng thành của một dân tộc. Một dân tộc đã từng trải qua cả một lịch sử chiến tranh đau đớn mà vẫn không coi đó là “nỗi buồn” thì chẳng lẽ lại xem cuộc chiến ấy là niềm vui?

Các cuộc đấu tố thường bùng lên vào những mốc kỷ niệm lớn, khi ký ức chính thống được có cơ hội kích hoạt. Nhưng với “Nỗi buồn chiến tranh” thì lại là một trường hợp khác, nó bị đấu tố để bảo vệ những biểu tượng, những huyền thoại cũ đã quen thuộc trong tâm thức. [13]

Đó là phép thử cho tinh thần dân tộc.

Rằng, tinh thần dân tộc có thực sự trưởng thành khi vẫn còn cần đến những huyền thoại được tô vẽ để tự trấn an, không dám thừa nhận những cơn sang chấn? 

Một dân tộc trưởng thành khi ta chấp nhận rằng ký ức chiến tranh không thể chỉ mang một giọng nói.

Cũng như, khi dân tộc đó dám nhìn nhận thẳng thắn thứ nỗi buồn chiến tranh mà họ đã từng có, chứ không phải chối từ và chỉ nhìn vào những chiến thắng vẻ vang. Bởi, chỉ đến lúc đó, ta mới thực sự hiểu nỗi buồn đó không làm suy yếu tinh thần dân tộc, mà chỉ đặt thêm thứ nền móng vững chắc cho một tinh thần dân tộc nhân bản hơn.

Đan Thanh (Luật Khoa Tạp Chí)