Lợi dụng dịch bệnh, Trung cộng ngang nhiên đưa máy bay quân sự ra đảo Trường Sa
ISI đăng ảnh trên Twitter cho thấy máy bay vận tải quân sự Y-8 của Trung cộng ở đá Chữ Thập hôm 28/3 (nguồn: ISI).
ImageSat International (ISI), hãng cung cấp hình ảnh vệ tinh của Israel, hôm 29/3 đăng lên Twitter hình ảnh vệ tinh cho thấy một máy bay vận tải quân sự Thiểm Tây Y-8 của Trung cộng “có thể đưa hàng tiếp tế” đến đá Chữ Thập ở Trường Sa của Việt Nam – khu vực bị Trung cộng cưỡng chiếm và bồi đắp thành đảo nhân tạo phi pháp.
“Hoạt động định kỳ của máy bay quân sự ở khu vực Biển Đông có thể cho thấy quân đội Trung cộng gần như không bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng y tế tại nước này”, ISI viết kèm hình ảnh chụp ngày 28/3, đề cập đến đại dịch virus Vũ Hán khởi phát từ Trung cộng và đang bùng phát trên toàn cầu.
Về sự việc này, một số bên ngoại giới đã lên tiếng phản ứng. Chuyên gia quốc phòng Swee Lean Collin Koh thuộc Trường Nghiên cứu quốc tế S.Rajaratnam (Singapore) nhận định với báo Philippine Daily Inquier rằng, Trung cộng vẫn tiến hành các hoạt động ở Biển Đông, nhưng vì đại dịch virus Vũ Hán đang hoành hành trên toàn cầu, khiến cộng đồng quốc tế giảm chú ý tới những hành động của Bắc Kinh ở khu vực.
Máy bay vận tải Y-8 của Trung cộng (nguồn: Twitter nudelsinpita).
Trước đó ít ngày, Tân Hoa Xã – cơ quan ngôn luận của chính quyền Trung cộng thừa nhận rằng, họ đã khánh thành hai trạm nghiên cứu trên Đá Subi và Đá Chữ Thập ở Trường Sa. Hai cơ sở nghiên cứu này, đặt dưới sự quản lý của Trung tâm Nghiên cứu Tổng hợp Đảo và Đá thuộc Viện hàn lâm Khoa học Trung cộng (CAS), bao gồm nhiều phòng lab về sinh thái học, địa chất học và môi trường.
Phía Việt Nam, ngày 26/3, Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng đã lên tiếng về hành động của chính quyền Trung cộng. Bà Hằng nói: “Như đã nhiều lần khẳng định, Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý và bằng chứng lịch sử khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa phù hợp với luật pháp quốc tế.
Theo đó, mọi hoạt động tại hai quần đảo này phải được sự cho phép của Việt Nam. Việt Nam yêu cầu Trung cộng tôn trọng chủ quyền của Việt Nam, không có các hành động gia tăng căng thẳng, làm phức tạp tình hình và ảnh hưởng tới hòa bình, ổn định ở Biển Đông và khu vực cũng như nỗ lực của các nước trong tiến trình đàm phán Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC)”, Theo Zing.
Đá Vành Khăn, đá Chữ Thập và đá Subi là 3 trong 7 thực thể bị Trung cộng chiếm đóng phi pháp ở quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam. Trong nhiều năm qua, Bắc Kinh đã bồi lấp, xây đảo nhân tạo và quân sự hóa biến các thực thể này thành tiền đồn ở Biển Đông.
Theo ĐKN (01.04.2020)
Việt Nam, Mã lai, Phi Luật Tân: Gác tranh chấp, chống Trung cộng ở Biển Đông?
Ảnh minh họa: Một tàu tuần duyên của Trung cộng hoạt động trong vùng Biển Đông gần Scarborough, khu vực có tranh chấp chủ quyền với Phi Luật Tân. Ảnh chụp ngày 14/05/2019. TED ALJIBE / AFP
Tầu Hải Dương Địa Chất 8 quần thảo trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam suốt hơn ba tháng và mới chỉ rút khỏi khu vực ngày 24/10/2019. Mã lai bị Trung cộng đe dọa ở thềm lục địa trong dự án dầu khí. Tầu Trung cộng ngang nhiên đi vào vùng biển mà Phi Luật Tân tuyên bố chủ quyền từ suốt tháng 2 đến tháng 7/2019. (Tạp chí phát lần đầu ngày 28/10/2019)
Hành vi cậy lớn ăn hiếp bé của Trung cộng bị phó tổng thống Mỹ Mike Pence lên án trong bài phát biểu bao quát về quan hệ Mỹ-Trung ngày 24/10 tại Trung tâm Quốc tế Woodrow Wilson ở Washington : Dùng đội tầu “dân quân biển” để thường xuyên hăm dọa thủy thủ, ngư dân Phi Luật Tân và Mã lai ; dùng hải cảnh để quấy nhiễu Việt Nam thăm dò dầu khí ngay trong vùng biển của chính Việt Nam.
Điều đáng tiếc là ba nước bị Trung cộng ức hiếp chỉ biết phản đối, bám sát theo dõi hoạt động của tầu thuyền của Trung cộng do quá chênh lệch về tiềm lực quân sự. Đơn lẻ không làm nên chuyện, tại sao chưa bao giờ Việt Nam, Phi Luật Tân và Mã lai ngồi lại với nhau, bàn về bất đồng chủ quyền của ba nước để có thể hợp lực chống Trung cộng ?
Đây là một trong số những thắc mắc được giám đốc nghiên cứu Benoît de Tréglodé, Viện Nghiên cứu Chiến lược của Trường Quân sự Pháp (IRSEM), gợi lên khi trả lời phỏng vấn RFI Tiếng Việt.
Phỏng vấn Benoit de Tréglodé
RFI : Từ nhiều năm gần đây, Biển Đông trở thành một điểm nóng. Xin ông giải thích tại sao ?
Benoît de Tréglodé : Trước tiên, tôi nghĩ rằng bước ngoặt quan trọng rõ nét là vào đầu những năm 1990, sau khi nhiều nước Đông Nam Á ký vào Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (tại Montego Bay, Jamaica). Sự kiện này đã giúp họ khám phá lại muôn mặt hàng hải, hay nói chung là biển cả, trong toàn khu vực. Chính Công ước này cũng khiến các nước trong vùng ý thức được rằng chủ quyền trong vùng Đông Nam Á liên quan chặt chẽ với tương lai sở hữu biển của họ.
Đây là điểm mới vì chúng ta vẫn thường quên rằng cho đến những năm 1980, biển cả vẫn là vấn đề gì đó khá xa vời. Lấy ví dụ trường hợp Việt Nam, họ không hẳn có truyền thống hàng hải. Ngành đánh bắt cá là mối liên hệ thực sự giữa biển và đất liền. Còn thực ra, khái niệm “không gian biển” thì sau này mới có.
Có thể nói việc ký Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển là một bước ngoặt đáng chú ý. Về mặt địa-chính trị, dĩ nhiên là có nhiều thay đổi, biến động trong vùng, dẫn đến việc Trung cộng gia tăng hoạt động, hiện diện và ảnh hưởng trong vùng mà họ coi là vùng “ảnh hưởng trực tiếp”, vùng “vành đai”, “phạm vi” của họ.
Song song đó, sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, đã diễn ra sự phân chia lại vị trí của Mỹ, cũng như của các đồng minh quân sự của Hoa Kỳ tại Đông Nam Á. Tất cả những yếu tố này đã tạo ra một chỗ trống nhất định, làm suy yếu 50 năm quan hệ giữa Trung cộng và Đông Nam Á, đồng thời cũng cho thấy rõ lĩnh vực hàng hải trở thành một vấn đề đối đầu giữa các nước trong khu vực
RFI : Một bài báo của Trung cộng so sánh Biển Đông như vùng Vịnh, nơi có nguồn tài nguyên giầu có, vì vậy, phải xuống sâu hơn, và họ đã xuống tận Bãi Tư Chính (Vanguard Bank). Chiến lược của kiểu truyền thông này là gì ?
Benoît de Tréglodé : Phải trở lại quá khứ, dù mới đây thôi, chúng ta đừng quên là vào những năm 1970 đến 1974, Trung cộng của Mao Trạch Đông tái chiếm hoặc chiếm các đảo và đá ở Hoàng Sa từ tay quân đội miền nam Việt Nam, bất chấp sự phản đối của chính quyền Cộng Sản Việt Nam kể từ năm 1975. Đây có thể là một “sự đã rồi” !
Ngay từ những năm 1970, Việt Nam chợt tỉnh ra rằng Trung cộng có nguy cơ làm tương tự đối với quần đảo Trường Sa. Họ tự nhủ : Chính chúng ta phải tiến quân cờ ! Chính chúng ta phải chiếm một số thực thể ở Trường Sa ! Và Việt Nam bắt đầu kiểm soát quân sự một số đảo từ những năm 1970-1980. Phía Trung cộng mất đến 10 năm để phản ứng, cho đến khi xảy ra vụ Trung cộng xâm chiếm Gạc Ma năm 1988 để quay lại hiện diện trong quần đảo Trường Sa. Có nghĩa là Trung cộng đến sau.
Sau hàng loạt sự kiện xảy ra ở Biển Đông thì dẫn đến các vấn đề về quyền, các quyền pháp lý. Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển cũng dẫn đến vấn đề chồng chéo các vùng đặc quyền kinh tế giữa các nước khiếu nại, cụ thể là năm nước đều đòi chủ quyền đối một phần hoặc toàn bộ Biển Đông (Việt Nam, Trung cộng, Mã lai, Phi Luật Tân, Brunei), cộng thêm Đài Loan.
Công ước UNCLOS không xóa được các tranh chấp hàng hải và chủ quyền chồng chéo và khiến quan hệ song phương, quan hệ giữa các nước trở nên phức tạp hơn trong những năm 2000. Những chuyện không xảy ra trong những năm 1980 thì xảy ra trong những năm 2000 bởi vì ý thức đòi chủ quyền đã thực sự trỗi dậy.
Ngoài ra, còn phải chú ý đến xã hội hiện nay, nổi bật với sự phát triển kinh tế nhanh chóng trong những năm 2000-2010. Một tầng lớp trung lưu xuất hiện, năng động hơn, quan tâm đến chất lượng cuộc sống, và bớt để chính quyền dễ dàng giật dây. Vì thế, những chế độ chuyên quyền hiểu ra rằng họ cũng cần đến những động lực mới để huy động dân. Do vậy, lòng yêu nước, vấn đề hàng hải trở thành công cụ vô cùng lợi hại cho các nước và các chính quyền để huy động nhân dân, đôi khi cũng khá kích động và cần tự do hơn.
RFI : Trước mối đe dọa của Trung cộng, khối ASEAN không tìm được tiếng nói chung. Theo ông, liệu các nước như Việt Nam, Mã lai, Phi Luật Tân có tìm được điểm chung để đối phó với đà tiến của Trung cộng ?
Benoît de Tréglodé : Trước tiên, có một điểm đã thay đổi, bởi vì trong thập niên 1980, Trung cộng luôn quảng bá về những vùng phát triển và khai thác chung, nhấn mạnh hợp tác chung với các nước Đông Nam Á trong những vùng tranh chấp. Đối với Việt Nam, Phi Luật Tân và Mã lai, không có chuyện chấp nhận kiểu giải pháp này.
Hiện nay, chúng ta thấy Trung cộng đã đẩy khá nhanh những quân cờ của họ. Tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc ở New York vào cuối tháng 09/2019, Phi Luật Tân đã hoan nghênh mô hình hợp tác này với Trung cộng ngay trong chính vùng đặc quyền kinh tế của họ (EEZ) hoặc trong những vùng biển có tranh chấp giữa Bắc Kinh và Manila. Mọi chuyện đã thay đổi. Từ nay, chỉ còn mỗi Việt Nam có lập trường cứng rắn hơn.
Nhưng có điều chắc chắn là chính sách của Trung cộng đối với các khu vực tranh chấp ở Biển Đông đã hiện rõ nét ở Đông Nam Á và chia rẽ thực sự cộng đồng ASEAN. Đó là mức độ thứ nhất, có nghĩa là chia rẽ nội bộ do tác động của nước ngoài, từ bên ngoài. Ngoài ra, cũng cần chú trọng đến mức độ hai, đó là ASEAN bị chia rẽ ngay trong nội bộ. Lấy ví dụ trường hợp Việt Nam. Nước này chưa bao giờ thực sự đề cập trực tiếp với Phi Luật Tân hoặc với Mã lai về việc phân chia các đảo và đá ở Biển Đông.
Mặt khác, ASEAN vẫn tuân theo nguyên tắc bất di bất dịch là không can thiệp công việc nội bộ của các nước thành viên và đối tác. Quy luật này lại dẫn đến việc ASEAN và các nước thành viên bị ngoại lực chia rẽ, nội bộ thì bất hòa bởi vì họ thực sự không dám xử lý những vấn đề được cho là vô cùng nhạy cảm giữa các nước. Rõ ràng ASEAN chưa từng tạo được động lực để giải quyết những vấn đề đó.
RFI : Trong Tạp chí Quốc phòng (Revue de la Défense nationale) số mùa hè 2018, ông tham gia bài viết “Việt Nam-Trung cộng, chiến tranh sẽ không xảy ra” (Vietnam-Chine, la guerre n’aura pas lieu). Ông có thể giải thích thêm về nhận định này ?
Benoît de Tréglodé : Câu hỏi vẫn hằn trong tâm trí các nhà phân tích và nghiên cứu là các nhà lãnh đạo Việt Nam sẽ đưa ra giải pháp nào ? Liệu họ có ngả sang liên minh với Mỹ hay không ? Hoa Kỳ sẽ cung cấp cơ sở để lập một nhóm mới nhằm ngăn chặn ảnh hưởng và tham vọng của Trung cộng ở Châu Á-Thái Bình Dương. Hay là chính quyền Việt Nam sẽ ngả sang Bắc Kinh ? Trung cộng là đối tác thương mại hàng đầu và cũng là đối tác về tư tưởng và chính trị quan trọng của Việt Nam.
Những gì chúng tôi quan sát được từ vài năm gần đây, đó là nội bộ giới tinh hoa Việt Nam rõ ràng tránh lựa chọn. Không có kiểu phe ủng hộ Mỹ hay thân Trung cộng mà có một logic rất Việt Nam, đó là tìm kiếm sự cân bằng thường trực để bảo tồn sự độc lập quốc gia. Hiện không có dấu hiệu nào giúp hiểu được Việt Nam sẽ ngả theo bên nào.
Về đối thoại với Trung cộng, chúng tôi quan sát trên những vùng xung quanh nước này, như khu vực vịnh Bắc Bộ. Về vùng biển này, Việt Nam và Trung cộng đã ký một thỏa thuận biển vào năm 1989, và là nơi có cả sự hợp tác hàng hải, quân sự, hải cảnh và kinh tế dù đôi khi chỉ ở quy mô khá khiêm tốn, nhưng điều đó cho thấy một lần nữa rằng Hà Nội có chủ ý rất cụ thể, rất thực dụng là không quá tỏ ra đối đầu với Bắc Kinh vì Việt Nam biết rằng họ sẽ bị thua thiệt nhiều. Bắc Kinh cũng là một đồng minh ý thức hệ lớn mạnh trong một khu vực đang bị xáo trộn vì sự phát triển kinh tế, nơi mà các chế độ chuyên chế đôi khi bị một bộ phận người dân đặt nghi vấn. Vì thế, rõ ràng là Hà Nội cần sự ủng hộ về mặt chính trị.
Trong khi ASEAN, như chúng ta thấy với phát biểu của thủ tướng Singapore, sau đối thoại Shangri-La vào tháng 06/2019, vẫn có một chút oán giận về sự khác biệt giữa lịch sử Việt Nam và của cộng đồng các nước Đông Nam Á. Chúng ta đừng quên là khi ASEAN được thành lập vào năm 1967, trước hết là để có thể tách ra khỏi phe Đông Dương, hiếu chiến, theo Cộng Sản… khiến nhiều nước phải sợ trong khi những quốc gia này ưu tiên phát triển kinh tế, chỉ quan tâm đến tài sản và phòng vệ. Có nghĩa là ASEAN được thành lập từ sự đối đầu với một nước Việt Nam hơi “ngỗ ngược”. Từ khi Việt Nam gia nhập khối vào năm 1995, ASEAN phải xem xét lại bản sắc chính trị chung.
Ngoài ra, sau khi Phi Luật Tân đưa vấn đề ra Tòa Trọng Tài Thường Trực La Haye cách đây vài năm, chúng ta đã thấy và thường thấy, thông qua những phản đối của Việt Nam về việc Trung cộng thâm nhập vùng Biển Đông, ASEAN không hẳn đã thích hành động đơn phương của các nước có liên quan. Vì thế, họ vừa cố bảo tồn “tính tập trung” của ASEAN, nhưng đồng thời họ cũng không muốn bỏ qua một sức ảnh hưởng mới, một mô hình kinh tế hiện đại mới mà Trung cộng đề xuất cho khu vực này.
RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn giám đốc nghiên cứu Benoît de Tréglodé, Viện Nghiên cứu Chiến lược của Trường Quân sự Pháp (IRSEM).
Thu Hằng RFI (30.03.2020)
Trung cộng khai thác lượng khí băng lớn kỷ lục ở Biển Đông
Bắc Kinh có thể đẩy mạnh tập trận ở Biển Đông trong bối cảnh căng thẳng gia tăng với quân đội Mỹ
Không quân và hải quân Trung cộng đang theo dõi sát sao quyền tự do hàng hải của Hoa Kỳ ở Biển Đông trong khi cả hai vẫn còn phải đang lo chống lại đại dịch virus corona.
Quân đội Trung cộng dự kiến sẽ đẩy mạnh các cuộc tập trận trong khu vực để tăng cường huấn luyện chiến đấu. Cuộc tập trận gần nhất là vào ngày 10 tháng 3 mô phỏng cuộc đối đầu trực diện với máy bay và tàu chiến nước ngoài xâm lược Biển Đông.
Các cuộc tập trận của Trung cộng diễn ra cùng ngày với tàu USS McCampbell đang tiến hành một hoạt động tự do hàng hải lần thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ trong năm nay khi tàu này tiến gần đến Quần đảo Hoàng Sa nơi Trung cộng và Việt Nam cùng tuyên bố chủ quyền.
Căng thẳng Mỹ Trung đã gia tăng trong những tháng gần đây. Hồi tháng 2, Hải quân Mỹ cho biết một khu trục hạm Trung cộng đã rọimột tia laser vào máy bay do thám P-8A Mỹ trong trên vùng biển quốc tế cách tây Guam 610km (380 dặm) vì Trung cộng cho rằng Mỹ đã lạm dụng quyền tự do hàng hải theo luật pháp quốc tế.
Ở Biển Phi Luật Tân, các tàu chiến của Hạm đội Thái Bình Dương Hoa Kỳ do tàu USS Theodore Roosevelt dẫn đầu đã thực hiện một loạt cuộc tập trận trong những tuần gần đây.
Kể từ khi Tập Cận Bình lên nắm quyền vào cuối năm 2012, Bắc Kinh đã chi hàng nghìn tỷ nhân dân tệ để xây dựng tám hòn đảo nhân tạo, và hơn hai chục tiền đồn đảo xung quanh các rạn san hô và đảo nhỏ trong khu vực tranh chấp chủ quyền với Phi Luật Tân, Việt Nam, Mã lai, Brunei và Đài Loan.
Cả Trung cộng và Hoa Kỳ đã cố gắng mở rộng sự hiện diện quân sự của họ trong khu vực nhưng cả hai đã rất thận trọng vì không bên nào muốn tạo ra xung đột quân sự thực sự.
Vì vậy Hải quân Hoa Kỳ chỉ đi lại nhiều ở vùng Biển Phi Luật Tân và Eo biển Đài Loan vì Washington nhận ra rằng Bắc Kinh chịu để mất Đài Loan.
Bắc Kinh khoe hai thác được khối lượng khí đốt lớn kỷ lục thế giới ở Biển Đông
Hôm thứ Năm truyền thông Trung cộng đưa tin Trung cộng đã khai thác 861.400 mét khối khí đốt tự nhiên từ khí mêtan,hay băng cháy trong một tháng khai thác thử nghiệm ở Biển Đông.
Khí băng được khai thác từ độ sâu khoảng 1.225 mét tại một khu tranh chấp ở Biển Đông nơi được cho là có trữ lượng khí băng hứa hẹn nhất thế giới và Trung cộng đã xác định đá băng cháy dễ cháy là một nguồn khí tiềm năng mới.
Thông báo của Trung cộng được đưa ra để đáp trả vụ thử tên lửa bắn đạn thật của Hải quân Hoa Kỳ tại Biển Phi Luật Tân gần đó vào tuần trước
Thử nghiệm này được coi là một bước quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa khí mêtan dựa một nền tảng kỹ thuật vững chắc để khai thác thương mại,Trung cộng đã áp dụng một kỹ thuật khoan giếng ngang mới nhất và đã khai thác được lượng khi băng lớn nhất thế giới.
Trung cộng lần đầu tiên tiến hành khai thác khí thử nghiệm khí băng -metan hydrat ở Biển Đông vào năm 2017. Trong khoảng thời gian 60 ngày, Trung cộng đã khai thác được 300.000 mét khối khí đốt tự nhiên.
Là quốc gia nhập khẩu dầu và khí đốt lớn nhất thế giới, Trung cộng muốn tìm kiếm các nguồn nhiên liệu thay thế để tăng cường an ninh năng lượng trong bối cảnh giá dầu và khí đốt biến động gần đây. Bắc Kinh đặt mục tiêu đáp ứng 10% năng lượng trong nước từ khai thác khí đốt tự nhiên.
Việt Nam yêu cầu Trung cộng tôn trọng chủ quyền biển của Việt Nam
Chiều 26.3, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng đã lên tiếng về việc Trung cộng vừa đưa vào hoạt động 2 trạm nghiên cứu trên đá Xu Bi và đá Chữ Thập thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam.
Bà Hằng lặp lại những lý lẽ Việt Nam trước giờ vẫn sử dụng để phản đối sự Bắc Kinh “Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý và bằng chứng lịch sử khẳng định chủ quyền với 2 quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, phù hợp với luật pháp quốc tế. Vì vậy Việt Nam cho yêu cầu mọi hoạt động tại 2 quần đảo này phải được sự cho phép của Việt Nam”.
“Việt Nam yêu cầu Trung cộng tôn trọng chủ quyền của Việt Nam; không có các hành động gây gia tăng căng thẳng, làm phức tạp tình hình và ảnh hưởng tới hòa bình ở Biển Đông và khu vực; tuân thủ quy định của các nước trong tiến trình đàm phán Bộ quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC) giữa ASEAN và Trung cộng.”
Chi Mai, VNTB (30.03.2020)
_______________
Chú thích:
(2) https://www.breitbart.com/asia/2020/03/27/china-boasts-world-record-gas-extraction-south-china-sea/
Virus corona: Trung cộng lại lấn át ở Biển Đông, VN còn trông đợi Mỹ được không?
Bản quyền hình ảnhTED ALJIBE/GETTY IMAGESImage caption Ảnh minh họa
Trong lúc dịch Covid-19 đang diễn biến phức tạp, Trung cộng triển khai nhiều hoạt động mới ở Biển Đông ngay sau khi tuyên bố giải quyết xong ổ dịch Vũ Hán.
Việt Nam có thể làm gì trong tình thế này khi cũng đang gồng mình chống dịch và liệu đồng minh Mỹ có đóng góp vai trò gì giúp Việt Nam khi cường quốc này vừa trở thành nước dẫn đầu thế giới về số ca lây nhiễm?
Khai thác khí tự nhiên trên Biển Đông
Bản quyền hình ảnhGETTY IMAGES
Mới đây nhất, ngày 26/3, Trung cộng đã khai thác 861.400 mét khối khí tự nhiên từ khí metan, trong một tháng sản xuất thử nghiệm ở Biển Đông, truyền hình nước này đưa tin.
Giới chức năng lượng Trung cộng phát biểu rằng đây là bước quan trọng trong tiến trình công nghiệp hóa khí metan.
Metan đã được xác định là một nguồn khí đốt mới tiềm năng cho Trung cộng và Biển Đông được cho là có chứa một số lượng khí metan dồi dào nhất trên thế giới.
Đem tàu và máy bay đến Biển Đông
Bản quyền hình ảnhNICHOLAS YEO/GETTY IMAGES
Trung cộng đã đưa máy bay quân sự tới Biển Đông để diễn tập trong tháng này ở Biển Đông, dường như để đáp trả các cuộc tuần tra qua khu vực này của các tàu chiến Mỹ, theo truyền thông Trung cộng.
Mới hồi tháng Hai, tàu sân bay USS Theredore Roservelt cập cảng Đà Nẵng của Việt Nam, một động thái được cho là nhằm tăng cường quan hệ Mỹ-Việt, khẳng định sự hiện diện của Mỹ ở Biển Đông, nhưng đã khiến Trung cộng tức giận.
Tiếp đến, đầu tháng Ba, tàu khu trục tên lửa dẫn đường USS McCampbell của Mỹ đã đi vào Biển Đông để thể hiện rằng đây là tuyến đường thủy quốc tế mở thay vì nằm dưới sự kiểm soát của Trung cộng, theo Reuters.
Đáp lại, giữa tháng Ba, Trung cộng tập trận chungvới Campuchia trên Biển Đông mặc dù có nguy cơ khiến Việt Nam và các nước Đông Nam Á khác phẫn nộ.
Khánh thành hai trạm nghiên cứu ở Biển Đông
Bản quyền hình ảnhSOUTH CHINA MORNING POST/GETTY IMAGES
Trung cộng cũng mới đưa vào hoạt động hai trạm nghiên cứu trên Đá Subi và Đá Chữ Thập ở quần đảo Trường Sa của Việt Nam.
Hai cơ sở này sẽ theo dõi, đo đạc các thay đổi về sinh thái địa chất, môi trường tại các vùng biển này.
Hai cơ sở này được cho là cùng tổ hợp với một trung tâm nghiên cứu của Trung cộng xây dựng trước đó ở Đá Vành Khăn ở Trường Sa.
Mỹ lo Covid-19 nên’không giúp được gì’?
Bản quyền hình ảnhGETTY IMAGESImage captionHàng không mẫu hạm Mỹ Theodore Roosevelt
Nhưng chính phủ Hoa Kỳ, trong khi đang phải chống chọi với sự lây lan chóng mặt của COVID-19, không giúp đỡ gì các nước châu Á khác chống lại Trung cộng về lâu dài như đã từng trong quá khứ, theo các nhà phân tích trên VOA.
Theo Giáo sư Carl Thayer thì Mỹ không cho thấy vai trò lãnh đạo, và đó là một khoảng trống để Trung cộng nhảy vào.
Mới hồi tháng Hai, một sự kiện được Việt Nam chào đón long trọng là việc tàu sân bay Theodore Roosevelt cập cảng Đà Nẵng. Theo các nhà phân tích, việc này cho thấy Việt Nam ủng hộ sự hiện diện của hải quân Mỹ. Và rằng ,Việt Nam hy vọng rằng việc tăng cường quan hệ quốc phòng với Mỹ sẽ ngăn chặn Trung cộng tiếp tục bắt nạt.
Thế nhưng giới phân tích cho rằng mối liên minh này không thể kéo dài lâu.
Việt Nam và Mỹ ‘không tin nhau’?
Bản quyền hình ảnhGETTY IMAGES
Để chống lại sự đe dọa của Trung cộng, chiến lược của Mỹ là củng cố các cam kết về quan hệ đối tác và đồng minh đã có, đồng thời mở rộng và làm sâu sắc thêm quan hệ với các đối tác mới cùng chia sẻ quan điểm về tôn trọng chủ quyền, công bằng thương mại và luật quốc tế, theo phân tích của tác giả Mark J. Valencia trên SCMP.
Trung cộng coi khoảng 90% Biển Đông là của nước mình – nơi các nước khác cũng khẳng định chủ quyền như Brunei, Mã lai, Phi Luật Tân, Đài Loan và Việt Nam.
Trung cộng đã xây nhiều đảo nhỏ tại đây cho mục đích quân sự. Các tàu bảo vệ bờ biển của Trung Quóc định kỳ đi qua vùng viển mà các quốc gia khác khẳng định chủ quyền.
Chiến lược này nhằm thực hiện tầm nhìn vĩ đại của Mỹ về một Ấn Độ-Thái Bình Dương tự do và cởi mở, bao gồm tự do hàng hải, tôn trọng luật pháp, tôn trọng chủ quyền, doanh nghiệp tư nhân và thị trường mở…
Do tranh chấp trên Biển Đông với Trung cộng, từ lâu các nhà quan sát đã cho rằng Việt Nam là một nước chống Trung phò Mỹ mạnh mẽ nhất trong toàn khối ASEAN.
Thế nhưng, thực tế là Việt Nam không chia sẻ nguyên lý cốt lõi của một Ấn Độ-Thái Bình Dương tự do và cởi mở – tự do hàng hải cho các tàu chiến.
Việt Nam từ lâu đã có những chính sách hạn chế cho tàu chiến đi vào lãnh hải của mình – tương tự như Trung cộng. Đặc biệt, Việt Nam có cả đường lãnh hải cơ sở và các nước phải được phép của Việt Nam mới được vượt qua các đường cơ sở này, theo ông Mark J. Valencia – nhà phân tích chính sách hàng hải, nhà bình luận chính trị và nhà tư vấn chính sách châu Á nổi tiếng.
Do đó, việc Hoa Kỳ đưa các tàu chiến đi vào trong vùng lãnh hải xung quanh Hoàng Sa không chỉ nhắm vào Trung cộng mà còn vào Việt Nam.
Hơn nữa, Hoa Kỳ không công nhận các yêu sách của Việt Nam đối với các thực thể nằm dưới mực thủy triều ở Trường Sa, đồng thời phản đối việc quân sự hóa của Việt Nam, cũng giống như với Trung cộng.
Sự va chạm trong các diễn giải và các chính sách pháp lý liên quan đến tự do hàng hải là biểu tượng cho sự lệch tông mang tính chiến lược cơ bản giữa Mỹ và Việt Nam.
Ngoài ra, dù chống Trung, Việt-Trung lại có mối quan hệ khăng khít giữa hai đảng, và về kinh tế.
Việt Nam cũng luôn kiên định chính sách ‘ba không’ – không tham gia vào các liên minh quân sự, không có căn cứ quân sự nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam và không phụ thuộc vào một quốc gia để chống lại một quốc gia khác.
Không có điểm chung về văn hóa, ý thức hệ, hệ thống chính trị hay thế giới quan – ngoại trừ mối đe dọa của Trung cộng. Đó là bản chất của mối quan hệ chiến lược Việt -Mỹ, vẫn theo tác giả Mark J. Valencia.
Trên thực tế, Việt Nam và Mỹ không tin nhau – vì những lý do chính đáng và từ cả hai phía – và điều đó khiến cho việc xây dựng một mối quan hệ chiến lược vững chắc và lâu dài giữa hai bên là không thể, Tiến sỹ Mark J. Valencia bình luận.
BBC (30.03.2020)
Cuộc chiến pháp lý tại Biển Đông lại nóng lên
Hình minh hoạ. Hình chụp vệ tinh hôm 21/4/2017: quần đảo Trường Sa ở Biển Đông. AFP
Bắt đầu từ Mã lai
Ngày 12/12/2019, Mã lai đã gửi một bản đệ trình lên Uỷ ban Ranh giới Thềm lục địa của Liên Hợp Quốc, theo đó, yêu cầu một phần thềm lục địa mở rộng của nước này trên biển Đông, dựa trên Điều 76 của Công ước Luật biển của Liên Hợp Quốc năm 1982 (UNCLOS).
Đương nhiên, việc đệ trình này là những toan tính của Mã lai như Nguyễn Hồng Thao có phân tích trên tờ The Diplomats. Trong đó, như Nguyễn Hồng Thao đã chỉ ra: “việc đệ trình cũng khuyến khích Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa xem xét lại đệ trình chung của Việt Nam-Mã lai năm 2009, vì căn cứ mà Trung cộng và Phi Luật Tân dựa vào để phản đối đệ trình đó đã bị Tòa trọng tài 2016 bác bỏ. Chính xác hơn, đường chín đoạn đã bị tuyên bố là không có giá trị pháp lý và các thực thể trong quần đảo Trường Sa không đủ điều kiện hưởng quy chế đảo. Nói cách khác, đệ trình của Mã lai đặt ra câu hỏi về mối quan hệ giữa hoạt động của Ủy ban Ranh giới thềm lục địa và các phán quyết pháp lý.”
Phi Luật Tân lên tiếng
Ngày 26/3/2020, Phái đoàn thường trực của Phi Luật Tân tại Liên Hợp Quốc đã đệ trình Công hàm lên Liên Hợp Quốc để đáp lại Đệ trình của Mã lai. Trong Công hàm này, Phi Luật Tân đã nêu ra 3 điểm quan trọng:
1. Phi Luật Tân khẳng định rằng, các yêu sách biển của Trung cộng là không phù hợp với luật pháp quốc tế, bao gồm cả UNCLOS.
2. Phi Luật Tân khẳng định chủ quyền và quyền tài phán của Phi Luật Tân tại nhóm cấu trúc thuộc quần đảo Trường Sa mà Phi Luật Tân gọi là Kalayaan Island Group cùng với Bãi cạn Scarborough mà Phi Luật Tân gọi là Bajo de Masinloc.
3. Phi Luật Tân viện dẫn Phán quyết của Toà Trọng tài ngày 12/7/2016 trong việc giải thích tính chất pháp lý của các cấu trúc thuộc Trường Sa, theo Khoản 3 Điều 121 UNCLOS. Phi Luật Tân cũng nhắc lại tinh thần của Phán quyết rằng: “Các quy định của UNCLOS về các vùng biển của quốc gia ven biển sẽ có sức mạnh vượt trội so với các quyền lịch sử, hoặc các quyền chủ quyền hoặc quyền tài phán nếu vượt quá các quy định của UNCLOS”.
Như vậy, ta có thể thấy, mặc dù, Tổng thống đương nhiệm Phi Luật Tân Duterte rất “thân thiết” với Trung cộng và dường như “không muốn nhắc tới” Phán quyết năm 2016 của Toà trọng tài trong Vụ Phi Luật Tân kiện Trung cộng về những tranh chấp trên biển Đông giữa hai quốc gia này. Thế nhưng, đây chỉ là những lời “đầu môi chót lưỡi” của ông Duterte. Với các nội dung của Công hàm mà Phi Luật Tân đệ trình như vậy, nó có sức mạnh pháp lý lớn hơn rất nhiều những “lời nói gió bay” của ông này.
Trung cộng lặp lại luận điệu cũ
Ngày 23/3/2020, Trung cộng đã ra Công hàm đáp trả Công hàm của Mã lai và Phi Luật Tân. Công hàm này của Trung cộng bao gồm những nội dung như sau:
1. Trung cộng khẳng định Trung cộng có chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa (Trung cộng gọi là Nam Sa quần đảo) và Scarborough (Trung cộng gọi là đảo Hoàng Nham) cùng với những vùng nước kế cận các đảo này cũng như đối với đáy biển và lòng đất dưới đáy biển. Trung cộng có quyền lịch sử ở biển Đông. Chủ quyền và các quyền liên quan khác cùng với quyền tài phán của Trung cộng được hỗ trợ bởi các bằng chứng lịch sử và pháp lý. 2. Cái gọi là Kalayaan Island Group là một phần của quần đảo Trường Sa (Trung cộng gọi là Nam Sa quần đảo) và chưa bao giờ là một phần lãnh thổ của Phi Luật Tân. Cho tới những năm 70, Phi Luật Tân đã chiếm đoạt một cách bất hợp pháp một số cấu trúc biển này. Phi Luật Tân không thể viện dẫn vào hành vi chiếm đoạt bất hợp pháp này để bảo vệ cho yêu sách lãnh thổ của họ.
3. Là một phần của Trung Sa quần đảo, Scaborough (Trung cộng gọi là Hoàng Nham đảo) là lãnh thổ lâu đời của Trung cộng. Trung cộng đã thực hiện chủ quyền một cách hiệu quả và liên tục và quyền tài phán tại Scarborough. Yêu sách lãnh thổ phi pháp của Phi Luật Tân đối với Scarborough hoàn toàn không dựa trên luật pháp quốc tế.
4. Toà Trọng tài trong Vụ Phi Luật Tân kiện Trung cộng không có thẩm quyền vì tranh chấp này liên quan đến tranh chấp chủ quyền, phân định biển và thực hiện quyền tài phán..nên Toà này đã vi phạm UNCLOS. Các hành động và Phán quyết của Toà này là phi pháp, bất chính. Chính phủ Trung cộng không chấp nhận, không tham gia và không thừa nhận phán quyết này và không bao giờ chấp nhận các hành vi hoặc các yêu sách dựa trên Phán quyết này. Trung cộng và Phi Luật Tân đã đi tới thoả thuận chung bỏ qua Phán quyết này, sử dụng tham vấn và thương lượng song phương để giải quyết các tranh chấp biển này.
5. Chính quyền Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa yêu cầu Uỷ ban Ranh giới Thềm lục địa của Liên Hợp Quốc không xem xét đến đệ trình về thềm lục địa mở rộng này của Mã lai.
Qua Công hàm này của Trung cộng, chúng ta lại thấy những luận điệu nhàm chán của Trung cộng. Một mặt, Trung cộng làm phức tạp hoá vấn đề bằng các khái niệm “hổ lốn, hỗn tạp” trong tuyên bố của mình, lúc thì quyền lịch sử, lúc thì chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán. Nhưng bao giờ cũng thêm câu “Trung cộng có các bằng chứng lịch sử và pháp lý”, tuy nhiên các bằng chứng đó đâu thì không thấy Trung cộng đưa ra, mà chỉ nói suông vậy thôi.
Những căn cứ của Trung cộng bất chấp luật pháp quốc tế, cụ thể Scarborough là một bãi cạn, nó không thể là một “đảo” theo điều 121 của UNCLOS. Nhưng Trung cộng muốn sử dụng nó là một “đảo” để Trung cộng lúc thì viện dẫn chủ quyền, lúc thì quyền lịch sử… miễn “nói lấy được” thì thôi.
Phán quyết năm 2016 của Toà Trọng tài được thành lập theo Phụ lục VII của UNCLOS là một phán quyết lịch sử, góp phần làm sáng tỏ điều 121 của UNCLOS, theo đó giải thích không có cấu trúc nào thuộc Trường Sa có thể đáp ứng được yêu cầu là “đảo” cả. Đồng thời, Phán quyết cũng bác bỏ cái gọi là “yêu sách quyền lịch sử” của Trung cộng trong vùng biển Đông. Nhưng mặc dù Trung cộng một mặt lúc nào cũng viện dẫn luật quốc tế và UNCLOS, nhưng mặt khác, “điên cuồng” chống lại Phán quyết này, cho dù bị thế giới lên án.
Còn Việt Nam?
Việt Nam là một bên tham gia trực tiếp trong các tranh chấp này ở biển Đông. Quan điểm của Việt Nam là ủng hộ Phán quyết và chống lại cái gọi là “yêu sách đường lưỡi bò” trên biển Đông, bởi vì yêu sách này không có cơ sở nào trong luật quốc tế. Mới đây, Người phát ngôn Bộ ngoại giao Việt Nam “Việt Nam yêu cầu Trung cộng tôn trọng chủ quyền của Việt Nam; không có các hành động gia tăng căng thẳng, làm phức tạp tình hình và ảnh hưởng tới hòa bình ở Biển Đông và khu vực; tuân thủ quy định của các nước trong tiến trình đàm phán Bộ quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC) giữa ASEAN và Trung cộng.”
Đối với Đệ trình của Mã lai, có một phần chồng lấn với thềm lục địa của Việt Nam, vì thế, cũng đã có tác giả yêu cầu Mã lai phải thảo luận với phía Việt Nam về khu vực chồng lấn này, để bảo vệ lợi ích của Việt Nam.
Dư luận đang chờ Chính phủ Việt Nam lên tiếng chính thức về vấn đề này, cũng như, với cương vị là Chủ tịch ASEAN của năm nay, cố gắng để có thể đưa ra những quyết định quan trọng của ASEAN mà có thể thẳng thắn nêu tên kẻ hung hăng, gây bất ổn nhiều nhất ở khu vực biển Đông là Trung cộng.
RFA (29.03.2020)