Truyền kỳ 18 đời vua Hùng (Phần 1): Kinh Dương Vương khai mở quốc thống
Nhờ có Kinh Dương Vương mà văn minh Thần Nông đã dung hòa vào vùng đất xinh đẹp phương Nam này, tạo ra vô số Thần tích cùng một triều đại huy hoàng dài đến 26 thế kỷ đến nay vẫn được hậu thế xem là huyền thoại…
Thời đại Văn Lang với nền văn hiến rực rỡ gần 5.000 năm trong huyền sử luôn là niềm tự hào của dân tộc ta. Những nghiên cứu gần đây nhất với những sử liệu cổ xưa và các hiện vật còn sót lại được khai quật, chúng ta đều biết rằng nền văn hiến Văn Lang của người Lạc Việt ấy là hoàn toàn có thật. Tuy nhiên niên đại của các vua Hùng và triều đại kéo dài suốt 26 thế kỷ của họ vẫn còn gây nhiều tranh cãi khi các học giả cho rằng chỉ có 18 đời vua Hùng không thể nào cai trị suốt 2.600 như thế, vì tuổi thọ của con người không bao giờ dài mấy trăm năm. Vậy phải chăng sự tích các vua Hùng cần phải có lý giải khác khả tín hơn chăng?
May mắn thay, chúng ta gần đây đã tìm lại được những Thần phả cổ xưa nhất của dân tộc về thời đại huyền thoại của các vua Hùng. Có lẽ thông qua những Thần phả này ta có thêm được nhiều manh mối khả dĩ sáng tỏ được nhiều điều bí ẩn về tổ tiên dân tộc mình, để lý giải được sự trường tồn của 1 triều đại huy hoàng nhất đã vùi sâu trong cát bụi thời gian.
“Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mùng Mười tháng Ba
Dù ai buôn bán gần xa
Nhớ ngày giỗ Tổ tháng Ba mùng Mười”
Kinh Dương Vương là vị vua Hùng đầu tiên của dòng dõi các vua cai trị phương Nam. Tuy không nổi tiếng như các Hùng Vương sau này, nhưng nhờ sự kết hợp của vua và Thần long tiên nữ mà sinh ra Lạc Long Quân với dòng máu của Rồng sau này làm tổ khai sinh dòng Bách Việt. Bản thân vua cũng là người tu Tiên đắc Đạo, đã đặt nền móng cai trị vững chắc của một triều đại vua chúa đều là người tu, rực rỡ nhất lịch sử cổ đại, mà ánh quang huy vẫn còn lưu lại đến hôm nay.
Dòng dõi Viêm Đế Thần Nông, khai mở quốc thống
Khai tổ sinh ra vị vua đầu tiên của nước Nam ta vốn 1 vị vua tên là Đế Minh [chữ Hán 帝明] , ông là cháu ba đời của Viêm Đế hay còn gọi là Thần Nông. Ông có một con trai đầu gọi là Đế Nghi ở phương Bắc rồi sau đó đi tuần du xuống phương nam, đến núi Ngũ Lĩnh (giới hạn ở động Bạch Hổ tỉnh Vân Nam – xưa gọi là động Xích Quỷ) thì gặp nàng Vụ Tiên thần nữ, sinh ra con đặt tên là Lộc Tục (sau lên ngôi xưng là Kinh Dương vương) ở đây. Sau đó Kinh Dương Vương lên ngôi vua ở phương Nam, là vua đầu tiên của triều đại Hùng Vương.
Bức tranh “Quốc tổ Hùng Vương” của Họa sĩ Trọng Nội vẽ năm 1966, trưng bày tại phòng Khánh tiết Dinh Độc Lập. (Ảnh Wikipedia)
Khiêm tốn giữ mình, nhường ngôi cho anh
Lúc bấy giờ Đế Minh đã có một con lớn là Đế Nghi đang ở phương Bắc. Sau khi lấy nàng Vụ Tiên Thần nữ thì sinh ra con thứ hai tên là Lộc Tục, sau xưng là Kinh Dương Vương. Vua thông minh thánh trí, vượt trội hơn tầm của Đế Nghi nên rất được lòng vua cha. Vì thế Đế Minh muốn truyền ngôi báu cho Kinh Dương Vương cai quản cả thiên hạ phương Bắc và phương Nam, để làm chính thống cho muôn nước. Nhưng Kinh Dương vương lại không phải là người tham quyền cố vị nên cố từ chối để nhường cho anh. Thế là Đế Minh quyết định lập Đế Nghi nối ngôi, cai trị phương Bắc, phong cho Kinh Dương vương làm vua phương Nam. Nước ta lúc ấy gọi tên là nước Xích Quỷ.
(Ghi chú: Xích Quỷ không phải là Quỷ đỏ, nó mang nghĩa là lớn lao, thường đi với chữ Chủ để chỉ người nắm quyền lớn ở miền Nam. Xích là phần tinh hoa, tốt nhất (tự điển Thiều Chửu). Vậy nên Xích Quỷ nghĩa là nơi làm chủ cái tinh hoa của phương Nam, miền xích đạo, miền nông nghiệp lúa nước.)
Định đô lập quốc, phong hậu Thần Long
Kinh Dương vương kính tuân chỉ dụ của vua cha, đem quân lính đi về phía nam. Trên đường ngắm xem phong thủy, chọn nơi hình thế thắng địa để đóng đô. Qua đất Hoan Châu (vùng Nghệ An Thanh Hóa ngày nay) vua chọn được một vùng phong cảnh tươi đẹp, núi non hùng vĩ, gọi là núi Hùng Bảo Thiếu Lĩnh, tất cả có 99 ngọn (núi Ngàn Hống ngày nay).
“Vùng đất này giáp biển ở cửa Hội Thốn, đường núi quanh co, đường sông uốn khúc, địa thế rồng cuộn hổ ngồi, bốn hướng cùng trông, bèn xây dựng đô thành để định nơi cho bốn phương triều cống. Từ lúc này Hoan Châu trở thành kinh đô đầu tiên của triều đại Kinh Dương Vương. Bấy giờ khí xuân ấm áp, vô vàn cảnh sắc. Kinh Dương Vương bản tính thích xem hình thế núi sông phong thuỷ bèn lên thuyền ngự tuần du hải ngoại. Du ngoạn một thời gian dài, bất giác thấy thuyền rồng đã thẳng đến hồ Động Đình. Vua sai dừng thuyền, đứng ngắm xem cảnh trời nước thì chợt thấy một thiếu nữ dung nhan tuyệt sắc từ dưới nước đi lên. Vua cho là cuộc hội ngộ hiếm có xưa nay, bèn sai quân chèo thuyền đến gần. Vua nói:
– Tiên nữ đẹp quá, nàng từ đâu đến đây?
Thiếu nữ đáp:
– Thiếp tên là Thần Long, là con gái vua hồ Động Đình. Thiếp ở trong thâm cung cửa ngọc, từ lâu đợi bậc anh hùng. Nay gặp thiên sứ, nguyện được hầu trầu khăn.
Kinh Dương Vương vui mừng đẹp ý, bèn dắt tay thiếu nữ bước vào trong long thuyền lập tức quay trở về thành đô, lập Thần Long làm hoàng hậu.” (Hùng Vương ngọc phả)
Phong Châu linh địa, quốc đô muôn đời
Tuy đô thành Hoan Châu vừa mới lập xong chưa lâu, nhưng xem ra Kinh Dương Vương vẫn chưa thấy thỏa lòng vì long mạch nơi ấy dường như vẫn chưa phải là tốt nhất, chưa xứng làm kinh đô cho con cháu muôn đời sau của ông. Thế là nhà vua lại tuần du khắp nơi để tìm kiếm mảnh đất phong thủy bảo địa chân chính để quốc tộ có thể vĩnh truyền trăm vạn đời sau.
Trời không phụ người có đức và có lòng. Sau những ngày dài vua tuần thú, rong ruổi xa giá xem khắp các nơi sơn xuyên, khi đến xứ Sơn Tây thì thấy một nơi địa hình đồi non chập chùng, sông đẹp núi lạ. Vua bèn tìm mạch đất, thì nhận ra khí mạch của vùng này bắt nguồn từ trên núi Côn Lôn đi xuống, khí thế hùng tráng và vô cùng quý báu. Ngọc phả Hùng Vương chép về phong thủy vùng ấy như sau:
Sau những ngày dài vua tuần thú, rong ruổi xa giá xem khắp các nơi sơn xuyên, khi đến xứ Sơn Tây thì thấy một nơi địa hình đồi non chập chùng, sông đẹp núi lạ. (Minh hoạ: Bình Minh/NTD Việt Nam)
“Qua cửa Ải, lòng sông thoát mạch, rồng đi gần xa đến núi Tụ Long tiếp với châu Thu Vật xứ Tuyên Quang, biến ra toà Kim tinh cao muôn nhẫn. Mạch đất chảy đến các làng Hạ Hoa, Thanh Ba, Sơn Vi, Tây Lan, Phù Ninh phủ Lâm Thao, rồi đến chùa Long Hoa thôn Việt Trì ở Ngã ba sông Bạch Hạc là dừng. Mạch này bên trái từ sông Lôi Hà núi đi đến đâu sông theo đến đó, qua các huyện Đông Lan, Sơn Dương, Đương Đạo, Tam Dương đột khởi núi Tam Đảo, Tả cung Tiên làm thanh long. Trùng sơn vạn thuỷ, nổi lên các dãy núi ở Lập Thạch, Bách Ngõa, Chu Diên, Thanh Tước, Ngọc Bội, Khai Quang. Phụ bên trái có các núi Châu Sơn, Sóc Sơn, Chung Sơn, Trà Sơn, Từ Sơn, Trạm Sơn, Tích Sơn, An Lão sơn thuộc xứ Kinh Bắc chầu về, dẫn đến Hải Dương, Đông Triều, Hoa Phong, Yên Tử thoát ra đến biển, Đồ Sơn tám xã làm Long đầu chầu án. Mạch bên phải từ Ba Thục, Hán Giang, Nhị Hà, Lô Giang, Thao Giang, núi chạy đến đâu sông theo đến đấy. Đến Tuyên Quang, Hưng Hoá, Thập Châu, Thanh Nguyên, Bạn Hà, Đà Hà đến huyện Bất Bạt đột khởi núi Tản Viên. Hữu cung tiên làm Bạch hổ, muôn nhánh quần sơn nổi lên ở Minh Nghĩa, Phúc Lộc, Thạch Thất,Yên Sơn, Tây Phương, Sài Sơn, Tử Trầm, hữu bật đến Chương Đức, Đại Yên, Hương Tích sơn thuộc xứ Sơn Nam. Bên phải là Na Sơn, Nam Công, Vũ Phượng sơn, Đội sơn, Điệp sơn, Nghi Dương sơn, chầu phục vào trong, chảy thoát đến núi cửa biển Thần Phù ở núi Chính Đại thuộc Ái Châu, thoát đến Chích Trợ sơn, cửa Trà Lý làm đầu hổ chầu, lấy sông Bạch Hạc làm Nội minh đường, lấy Ngã Ba Lãnh ở sông Cả thuộc huyện Nam Xương làm Trung minh đường, núi Tượng Sơn ở Nam Hải làm Ngoại minh đường. Nghìn non nâng chủ, vạn thuỷ chầu nguồn, đều hướng về ngọn tổ sơn Nghĩa Lĩnh. “
Sau khi xem xét tường tận hình thế núi sông nơi đây, Kinh Dương Vương nhận ra thế cục của đất này quý đẹp hơn đô thành cũ ở Hoan Châu, bèn lập 1 cung điện ở núi Nghĩa Lĩnh để thỉnh thoảng ngự giá đến nghỉ.
Nhường ngôi cho con, đắc Đạo thành Tiên
Để tiện cho việc trị lý quốc gia, Kinh Dương Vương bèn dựng hẳn một đô thành đặt tên là Phong Châu bên núi Nghĩa Lĩnh. Một thời gian sau, khi vua đi tuần thú trở về cung điện đó ở núi Nghĩa Lĩnh thì cũng vừa lúc hoàng hậu Thần Long có mang, khắp nơi hiện điềm lành, toàn cung điện rực ánh sáng đỏ, trong trướng hương thơm ngào ngạt tỏa ra. Hoàng hậu nghỉ trong trướng ngọc khoảng một tuần (10 ngày) thì sinh ra Hoàng tử, húy là Sùng Lãm sau còn gọi là Lạc Long Quân.
Long quân bẩm sinh tư chất phi thường, tự có khí tượng đế vương, vua cha rất yêu quý bèn lập làm Hoàng thái tử. Lúc đó tuy đã có kinh đô mới, nhưng phần lớn thời gian cuối đời Kinh Dương Vương vẫn chỉ ngự ở cựu đô Hoan Châu. Khi Hoàng thái tử Sùng Lãm đã lớn, vua phái ngài ra ở tại đô thành núi Nghĩa Lĩnh tại Phong Châu thay vua cha làm việc nước. Kinh Dương vương ở ngôi 215 năm, sau nhường ngôi cho Hoàng thái tử Sùng Lãm, gọi là Lạc Long Quân rồi ông đi đâu không ai biết. Cũng giống như con mình sau này đắc Đạo thành Tiên, có lẽ Kinh Dương Vương cũng như thế.
Lời bàn về 18 đời vua Hùng
Dòng dõi Viêm Đế Thần Nông là một dòng vua cổ xưa với nhiều tinh hoa văn hóa đã từng giúp ích rất nhiều cho văn minh nhân loại thời kỳ sơ cổ. Nhưng sự suy thoái theo quy luật và sự trỗi dậy của Hoàng Đế đã khiến cho văn hóa Thần Nông hoàn toàn thất truyền ở phương Bắc. Nếu không nhờ vào chuyến tuần du phương Nam của Đế Minh, sinh ra Kinh Dương Vương và nước Xích Quỷ thì có lẽ họ Thần Nông và di sản của họ đã tiêu mất. Nhờ có Kinh Dương Vương mà văn minh Thần Nông đã dung hòa vào vùng đất xinh đẹp phương Nam này, tạo ra vô số Thần tích cùng một triều đại huy hoàng dài đến 26 thế kỷ đến nay vẫn được hậu thế xem là huyền thoại. Công đức của bậc tiền nhân, của người tu Đạo quả thực là vĩ đại thay.
Những câu hỏi liên quan về 18 đời vua Hùng
Dưới đây là một số câu hỏi phổ biến về 18 đời vua Hùng:
An Dương Vương là đời vua Hùng thứ mấy?
Bài viết chi tiết về An Dương Vương – Thục Phán có nêu: “Nước Văn Lang trải 18 đời vua Hùng đến Tuyền Vương đã không còn hùng mạnh như xưa, vì thế mà An Dương Vương muốn đánh Văn Lang để mở rộng lãnh thổ. Cuộc chiến Văn Lang Âu Lạc thực ra có thể coi như một cuộc nội chiến tranh giành ngôi báu giữa dòng trưởng và dòng thứ”.
Như vậy theo lịch sử, An Dương Vương không thuộc 18 đời vua Hùng. Ông là vua nước Âu Lạc (chỉ có 1 đời vua), thành lập sau 18 đời vua Hùng.
Cha của vua Hùng đời thứ nhất là ai?
Theo nội dung ở trên, Hùng Vương thứ nhất là Kinh Dương Vương (hiệu là Lộc Tục). Ông là con trai của Đế Minh. Như vậy cha của vua Hùng đời thứ nhất chính là Đế Minh.
Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, chép tại Kỷ Hồng Bàng Thị thì Đế Minh là cháu ba đời của Viêm Đế họ Thần Nông.
Vua Hùng sinh năm bao nhiêu?
Theo các tài liệu lịch sử, chi tiết năm sinh và thời gian trị vì của 18 đời vua Hùng như sau:
Kinh Dương Vương, húy Lộc Tục, tức Lục Dục Vương, sinh năm Nhâm Ngọ (2919 tr. TL) lên ngôi năm 41 tuổi, không rõ truyền được mấy đời vua, ở ngôi tất cả 86 năm, từ năm Nhâm Tuất (2879 tr.TL) đến Đinh Hợi (2794 tr. TL) so ngang với Trung Quốc vào thời đại Tam Hoàng (?).
Lạc Long Quân, húy Sùng Lãm, tức Hùng Hiền Vương, sinh năm Bính Thìn (2825 tr. TL), lên ngôi 33 tuổi, không rõ truyền mấy đời vua. Chi này ở ngôi tất cả 269 năm, đều xưng là Hùng Hiền Vương, từ năm Mậu Tý (2793 tr. TL) đến năm Bính Thìn (2525 tr. TL). Ngang với Trung Quốc vào thời Hoàng Đế (Ngũ Đế).
Hùng Quốc Vương, húy Hùng Lân, sinh năm Canh Ngọ (2570 tr. TL) lên ngôi khi 18 tuổi, không rõ truyền được mấy đời vua, đều xưng là Hùng Quốc Vương,272 năm, từ năm Đinh Tỵ (2524 tr. TL) đến 2253 tr.TL. Ngang với Trung Quốc vào thời Đế Thuấn, Hữu Ngu.
Hùng Hoa Vương, húy Bửu Lang, không rõ năm sinh, lên ngôi năm Đinh Hợi (2252 tr. TL), không rõ truyền được mấy đời vua đều xưng là Hùng Hoa Vương, ở ngôi tất cả 342 năm, từ năm Đinh Hợi (2254 tr. TL) đến năm Mậu Thìn (1913 tr. TL). Ngang với Trung Quốc vào thời Đế Quýnh nhà Hạ.
Hùng Hy Vương, húy Bảo Lang, sinh năm Tân Mùi(2030 tr. TL), lên ngôi khi năm 59 tuổi. Không rõ truyền được mấy đời vua, đều xưng là Hùng Hy Vương ở ngôi tất cả 200 năm, từ năm Kỷ Tỵ (1912 tr. TL) đến Mậu Tý (1713 tr. TL). Ngang với Trung Quốc vào thời Lý Quý (Kiệt) nhà Hạ.
Hùng Hồn Vương, húy Long Tiên Lang, sinh năm Tân Dậu (1740 tr. TL), lên ngôi khi 29 tuổi, truyền 2 đời vua, ở ngôi tất cả 81 năm đều xưng là Hùng Hồn Vương, từ năm Kỷ Sửu (1712 tr. TL) đến năm Kỷ Dậu (1632 tr. TL). Ngang với Trung Quốc vào thời -c Đinh nhà Thương.
Hùng Chiêu Vương, húy Quốc Lang, sinh năm Quý Tỵ (1768 tr. TL), lên ngôi khi 18 tuổi, truyền 5 đời vua đều xưng là Hùng Chiêu Vương, ở ngôi tất cả 200 năm, từ năm Canh Tuất (1631 tr. TL) đến năm Kỷ Tỵ (1432 tr. TL). Ngang với Trung Quốc vào thời Tổ Ất nhà Thương.
Hùng Vỹ Vương, húy Vân Lang, sinh năm Nhâm Thìn (1469 tr. TL) lên ngôi khi 39 tuổi, truyền 5 đời vua đều xưng là Hùng Vỹ Vương, ở ngôi tất cả 100 năm, từ năm Canh Ngọ (1431 tr.TL) đến năm Kỷ Dậu(1332 tr. TL). Ngang với Trung Quốc vào thời Nam Canh nhà Thương.
Hùng Định Vương, húy Chân Nhân Lang, sinh năm Bính Dần (1375 tr. TL), lên ngôi khi 45 tuổi truyền 3 đời vua đều xưng là Hùng Định Vương, ở ngôi tất cả 80 năm, từ 1331 đến 1252 tr.TL). Ngang với Trung Quốc vào thời Tổ Giáp nhà Ân.
Hùng Uy Vương, húy Hoàng Long Lang, 3 đời, 90 năm, từ 1251 đến 1162 tr.TL)
Hùng Trinh Vương, húy Hưng Đức Lang, sinh năm Canh Tuất (1211 tr. TL), lên ngôi khi 51 tuổi, truyền 4 đời vua, đều xưng là Hùng Trinh Vương, ở ngôi tất cả 107 năm, từ năm Canh Tý (1161 tr. TL) đến năm Bính Tuất (1055 tr. TL). Ngang với Trung Quốc vào thời Thành Vương nhà Tây Chu.
Hùng Vũ Vương, húy Đức Hiền Lang, sinh năm Bính Thân (1105 tr. TL), lên ngôi khi năm 52 tuổi, truyền 3 đời vua đều xưng là Hùng Vũ Vương, ở ngôi tất cả 86 năm, từ năm Đinh Hợi (1054 tr. TL) đến năm Nhâm Tuất (969 tr. TL). Ngang với Trung Quốc vào thời Lệ Vương nhà Tây Chu.
Hùng Việt Vương, húy Tuấn Lang, sinh năm Kỷ Hợi (982 tr. TL) lên ngôi khi 23 tuổi, truyền 5 đời vua, đều xưng là Hùng Việt Vương, ở ngôi tất cả 115 năm, từ năm Quý Hợi (968 tr. TL) đến Đinh Mùi (854 tr. TL). Ngang với Trung Quốc vào thời Lệ Vương nhà Tây Chu.
Hùng Anh Vương, húy Viên Lang, sinh năm Đinh Mão (894 tr. TL) lên ngôi khi 42 tuổI, truyền 4 đời vua đều xưng là Hùng Anh Vương, ở ngôi tất cả 99 năm, từ 853 đến 755 tr.TL Ngang với Trung Quốc vào thời Bình Vương nhà Đông Chu.
Hùng Triệu Vương, húy Cảnh Chiêu Lang, sinh năm Quý Sửu (748 tr. TL), lên ngôi khi 35 tuổi truyền 3 đời vua đều xưng là Hùng Triệu Vương, ở ngôi tất cả 94 năm, từ năm Đinh Hợi (754 tr. TL) đến năm Canh Thân (661 tr. TL). Ngang với Trung Quốc vào thời Huệ Vương nhà Đông Chu
Hùng Tạo Vương (Thần phả xã Tiên Lát, huyện Việt Yên, tỉnh Hà Bắc, ghi đời thứ 16 là Hùng Tạo Vương, đóng ở Việt Trì, có Thạc tướng quân đánh tan giặc Man, Vua phong là Chuyển Thạch Tướng Đại Vương – ‘NgườI anh hùng làng Dóng’ Cao Xuân Đỉnh (NxbKHXH 1969 trang 126-130), húy Đức Quân Lang, sinh năm Kỷ Tỵ (712 tr. TL), 3 đời vua, lên ngôi tất cả 92 năm, từ năm Tân Dậu (660 tr. TL) đến năm Nhâm Thìn (569 tr. TL). Ngang với Trung Quốc vào thời Linh Vương nhà Đông Chu
Hùng Nghị Vương, húy Bảo Quang Lang, sinh năm Ất Dậu (576 tr. TL) lên ngôi khi 9 tuổi, truyền 4 đời vua đều xưng là Hùng Nghị Vương, ở ngôi tất cả 160 năm, từ năm Quý Tỵ (568 tr. TL) đến năm Nhâm Thân (409 tr. TL). Ngang với Trung Quốc vào thời Uy Liệt Vương nhà Đông Chu
Hùng Duệ Vương, sinh năm Canh Thân (421 tr. TL), lên ngôi khi 14 tuổi, truyền không rõ mấy đờI vua (có lẽ 3 đời) vì ở đình Tây Đằng, huyện Ba Vì – Hà Nội có bài vị « Tam Vị Quốc Chúa », ở ngôi tất cả 150 năm, từ năm Quý Dậu (408 tr. TL) đến năm Quý Mão (258 tr. TL). Ngang với năm thứ 17 đời Uy Liệt Vương, đến năm thứ 56 đời Noãn Vương nhà Đông Chu Trung Quốc.
Tổng cộng là 2621 năm từ 2879 đến 258 tr. TL
***
Truyền kỳ về 18 đời vua Hùng. Phần 2: Lạc Long Quân và Thần tích con Rồng cháu Tiên
Tuy Kinh Dương Vương là vua đầu tiên của phương Nam, nhưng chính con của ông là Lạc Long Quân húy Sùng Lãm mới là vị Hùng Vương nổi tiếng nhất, là vị vua tu luyện đắc Đạo và vị Thần cổ xưa đầu tiên khai sinh ra dòng giống Bách Việt và định lãnh thổ cho quốc gia Văn Lang thời cổ đại.
Dân Việt Nam ta tự hào mình là dòng giống Con Rồng cháu Tiên là nhờ ơn của Lạc Long Quân và vợ là Âu Cơ vậy.
Trăm trứng nở trăm con, khai sinh dòng Bách Việt
Lạc Long Quân lên nối ngôi, đổi hiệu là Hùng Hiền vương, trở thành vị vua đầu tiên của triều đại Hùng Vương của quốc gia Văn Lang. Nhân duyên trời định đã đưa đến cho ông một người vợ vốn gốc Tiên để khai mở ra dòng giống Bách Việt sau này. Người vợ này chính là Âu Cơ, tổ mẫu của dân tộc ta. Sau khi về làm vợ Lạc Long Quân, Âu Cơ đã sinh ra cho ông những người con trai một cách thần kỳ mà sự tích còn lưu truyền đến ngày nay.
“Bấy giờ có con gái của Đế Lai tên là Âu Cơ về sống ở quê mẹ tại động Lăng Sương huyện Thanh Nguyên châu Đà Bắc (nay đổi làm sách Lăng Sương huyện Bất Bạt). Một hôm Âu Cơ đi chơi ở châu Trường Sa, gặp khi vua đi tuần thú ở Đà Giang. Vua thấy Âu Cơ dung nhan xinh đẹp, rất vừa ý, bèn lấy làm vợ, lập làm Hoàng phi.
Bấy giờ nàng Âu Lạc (tức Âu Cơ) có thai đã 3 năm 3 tháng 10 ngày, mây ngũ sắc sáng bừng đầu núi Ngũ Lĩnh. Giờ ngọ ngày 25 tháng 12 năm Giáp Tý cái thai trong bụng Âu Cơ chuyển động, đến giờ ngọ ngày 28 khắp nhà hương thơm tỏa nức, ánh sáng lóe lên trong trướng, hoàng phi Âu Cơ sinh ra một bọc màu trắng như ngọc. Khi hoàng phi mới sinh, hương lạ thơm nức khắp núi Nghĩa Lĩnh và cả vùng đất tổ Phong Thứu, Ngọc Lĩnh, Liên Trì (đầm sen).” (theo Hùng Vương ngọc phả)
Phù điêu “Tổ mẫu Âu Cơ”, tại Đền Nội Bình Đà, xã Bình Minh, huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội. (Ảnh wikipedia)
Thần tích triển hiện, Thượng đế ban ân
Vốn là một đế vương anh minh và vô cùng tôn kính Thần linh, khi đứng trước dị tượng lúc con mình sinh ra, Hùng Hiền Vương đã nhanh chóng tổ chức triều thần để làm lễ chầu lạy Thượng đế, mong Ngài chỉ bảo việc lành dữ. Thể theo lòng thành của Hiền Vương, Thượng đế đã giáng chỉ và triển hiện thần tích cho toàn thể nước Nam, chúc mừng vị chân mệnh đế vương khai mở triều đại, ban cho Ngài tất cả những thần khí sắc chỉ và vinh dự được truyền thừa triều đại dưới sự bảo hộ của Thiên thượng.
“Hiền vương thấy hoàng phi sinh tú bào hết sức dị thường, cổ kim thiên hạ chưa từng thấy. Người trong nước lấy làm lạ. Vua bèn triệu hội bách quan văn võ triều thần đến chầu ở chính điện. Giờ ngọ hôm ấy ba tiếng trống lệnh rung trời chuyển đất vang lên giữa không trung trong thành nội, núi sông cây cỏ muôn vật đều phải kinh hoàng, mây lành ngũ sắc sáng bừng khắp ba ngàn thế giới. Muôn chim bay chầu trên chính điện, dưới núi làn nước tung sóng cuộn dâng. Trăm kình nghê muông thú, muôn vật cá tôm gội gió mưa về chầu cống. Vua thấy quốc gia có điềm lành kỳ lạ, bèn xuống chiếu cho bá quan văn võ sửa sang áo mũ trai giới tịnh khiết đến tề tựu ở điện Kính Thiên đèn hương phụng hầu chầu lạy Hoàng Thiên Thượng Đế.
Ngày hôm ấy vào giờ Thân bỗng thấy một áng mây xanh từ phía Tây bay đến hội ở sân rồng điện Kính Thiên, rồi bốn vị Thiên tướng hiện ra rất kỳ lạ. Các vị tướng ấy cao hơn nửa trượng, đầu đội mũ hoa, mình mặc cẩm bào xanh, lưng thắt đai ngọc, chân đi hài sắt, nói cười đều loé hào quang lưỡi lửa. Rồi giữa các tầng mây hiện lên nhiều Thiên quan Thiên tướng. Ngọc Hoàng Thượng Đế xuống sắc:
‘Hiền chúa Nam Miên bọc rồng trăm trứng, nở ra trăm trai trị nước. Nay sai Tứ đại Thiên vương phù giúp bảo hộ. Vậy ban sắc này.’
Hiền vương sai truyền long bài truyền các quan văn võ ngước lên trời cao vái vọng, rồi lạy tạ Thiên vương. Thiên vương nói: Bào ngọc trăm trứng, rồng lành giáng sinh.
Thiên sứ báo cho Hiền vương đặt chiếu sắc của Ngọc hoàng Thượng đế lên chiếc mâm vàng đem đến ngôi chùa cổ ở núi Viễn Sơn, chuyển cho Từ Sơn Thiên Quang hoà thượng ở ngọn Thứu Lĩnh (sau đổi là Thiên Quang thiền tự) lưu giữ ở trong chùa, chọn quan trai giới chầu hầu, đèn hương không ngớt. Đến ngày bào trứng nở ra, Hiền vương theo lời dặn của Tứ đại thiên vương chờ đợi các trứng tự nhiên biến hoá. Hiền vương thành tâm làm lễ cầu đảo lớn.
Thế là vào giờ ngọ ngày rằm tháng giêng trăm trứng an lành nở ra trăm con trai. Khắp Long thành đầy mây ngũ sắc, ánh lành tỏa rạng khắp nơi, hương trời thơm ngát bay tỏa khắp chốn núi sông. Trong khoảng một tháng các chàng trai không cần bú mớm mà lớn bật lên như người trưởng thành, tướng mạo phương phi, dáng hình kỳ tú, thân cao ba thước bảy tấc, cái thế anh hùng.
Hiền vương triệu phi tần sáu cung đến phát các tấm gấm lĩnh để khâu may 100 bộ áo mũ cấp cho các chàng trai. Trong một ngày các cung nữ được ba lần cười vui, thường lấy hoa sen, lá sen trên hồ đem đến tặng cho các chàng trai. Được một trăm ngày, các chàng trai đã lớn, nhưng không biết nói, chỉ biết cười. Đúng trăm ngày, vào giờ Thìn ngày 20 tháng 7 cả trăm chàng trai đều cười vang, nói lớn:
Trời sinh bậc thánh,
Trị nước sinh vua.
Thanh bình bốn biển,
Thiên hạ vững yên.
Thế là một trăm hoàng tử đều đến trước sân rồng ở điện Kính Thiên. Bỗng thấy một áng mây ngũ sắc từ trên không bay sà xuống sân rồng. Hiền vương thấy 8 vị Thiên tướng đầu đội mũ đồng, mình mặc áo bào giáp sắt, chân đi hia bạc, lưng thắt khăn rồng quá độ, tướng mạo sang quý sáng láng, mắt sáng như sao, miệng nhả hào quang hỏa khí, tay cầm thần kiếm linh trượng, chày ngọc búa sắt, dàn hàng đứng hai bên tả hữu chờ lệnh. Bỗng không trung biến hóa, nhất thời mưa gió nổi lên, mây mù vờn bay vây quanh chính điện trên núi Nghĩa Lĩnh. Trong khoảnh khắc núi non mất hình, sông suối tràn dâng, không ai lường được chuyện gì xảy ra. Sau khoảng ba giờ (nửa ngày) bầu trời lại tạnh sáng. Đó là 8 vị Thiên tướng gọi là Bát bộ Kim Cương vâng sắc chỉ của Chư Phật ở Thượng thiên sai xuống hộ vệ 100 vị hoàng tử. Nay các hoàng tử đã trưởng thành đôn hậu minh mẫn, tám tướng phụng sai đưa các hoàng tử đến lạy mừng vua cha trị bình trong nước.
Tâu xong các các Thiên tướng biến hóa bay về trời, ban cho Hiền vương một lệnh long bài, một quả bảo ngọc thần ấn, một hòn ngọc trắng, một thanh kiếm thần, một quyển Thiên thư (sách trời), một chiếc thước ngọc, một chiếc mâm vàng, tất cả đều đặt trong chính điện. Hiền vương vâng mệnh đón nhận, coi đó là điềm lành lớn trời ban để trị yên thiên hạ.“ (theo Hùng Vương ngọc phả)
Chân dung đức Ngọc Hoàng Đại Đế. (Ảnh wikipedia)
Lạc Long Quân phân phong thiên hạ, định cõi trị vì
Tuy đã có trăm con trai uy vũ phi phàm, thiên tư trác tuyệt, nhưng việc phân định danh phận chức tước trong triều đình cho họ thì lại là việc không hề dễ dàng. Vì thế Lạc Long Quân một lần nữa phải nhờ đến sự giúp đỡ của Thần Phật.
Đức Lạc Long Quân tìm đến hang ổ của Ngư tinh (nguồn: NTDVN)
“Bấy giờ vua lên đàn tràng khấn lễ cầu đảo lớn. Vua vừa cầu khấn xong, tự nhiên có cảm ứng, có vị Thần ở phương Tây tới. Bỗng thấy một ông già râu tóc bạc phơ đầu đội mũ Phật gấm lĩnh, mình mặc áo vải nhuộm nâu, chân đi hia, tay cầm gậy tre ra chơi chùa Hoa Long ở thôn Việt Trì huyện Bạch Hạc. Ông già rửa chân bên sông rồi ngồi nghỉ trên tảng đá phẳng trên con sông gọi là sông Nhị Hà. Hôm ấy có triều quan là Nguyên suý tiết chế tướng quân trấn thủ đô thành Phong Châu đang ngồi trên ngôi lầu bên sông. Quan Nguyên suý trông thấy ông Tiên đang xem phong thuỷ, cúi đầu nhìn xuống đáy sông, một chân ghếch lên tảng đá hình lưng rùa (Đá lưng rùa ở thôn Việt Trì huyện Bạch Hạc; chùa Hoa Long ở bên bờ sông. Nay dấu tích ông Tiên hãy còn). Quan trấn thủ bèn mời cụ già đến hỏi chuyện. Quan đem hết chân tình quốc sự bộc bạch với cụ già, mở tiệc khoản đãi rồi mời ông về điện vua trên núi Nghĩa Lĩnh. Triều quan vào tâu vua. Vua thân hành ra mời cụ già vào cung mở tiệc chúc mừng. Hiền vương hỏi:
– Tiên ông từ đâu đến ngao du phong cảnh ở đây? Nay trong nước có chuyện lạ, nhờ Tiên ông chỉ giáo cho.
Tiên ông ha hả cười vang. Hiền vương vẫn đứng nói chuyện, hỏi Tiên ông:
– Trẫm có điềm lành sinh được trăm con trai trí tuệ thông minh thì tất cả đại khái cũng như nhau, cho nên khó đặt định danh hiệu vị thứ, cũng không biết ai anh ai em. Kính nhờ Tiên ông đặt tên, định thứ bậc giúp cho.
Tiên Ông đáp:
– Ta sinh ở thời Hoàng Đế, theo học đạo Phật, ngao du nơi hải ngoại càn khôn. Trong ba ngàn thế giới ta thích đến nước Nam Miên ngắm xem phong thuỷ. Vua cho mời ta đến đây, ta có một quyển sách thần có thể bói xem mọi việc trong thiên hạ, gọi tên các vị Tiên. Huống chi quốc gia đã có thành tâm lập đàn cầu đảo, đã cầu tất ứng. Xin nhà vua thành tâm để lão vận trù một quẻ hỏi xem tiền định thế nào? ‘
Tiên Ông bèn xem mặt các hoàng tử, phân định thứ bậc anh em. Đoạn Tiên ông lấy bút giấy ra đặt tên cho một trăm hoàng tử. Viết xong, Tiên ông đặt tờ giấy lên chiếc mâm vàng. Để phân định thứ bậc anh em, Hiền vương lại gọi 100 hoàng tử đến hội ở chính điện để nhận tên đã ghi trong sách. Mọi người đồng thanh cần phải có bậc huynh trưởng đứng đầu. Rồi mọi người lại chia xếp thành hai hàng đối nhau đợi lệnh. Một người được gọi tên được lập làm Vương trừ thái tử (Thái tử nối ngôi vua), còn 99 người khác lần lượt đến trước mâm vàng nhận danh hiệu được ban. Từ đó thứ bậc anh em phân định rõ ràng, ai nấy đều vui. Xếp đặt mọi việc đã xong, Tiên ông tự nhiên biến hoá về trời. Hiền vương sai các quan thường xuyên đến chùa Từ Sơn Thiên Quang Hoà thượng cầu Phật ứng hộ.
Vương trừ Thái tử tục danh là Hùng Lân sau đổi là Hùng quốc vương. Các con thứ có tên là Xích Lang, Quỳnh Lang, Mật Lang, Thái Lang, Vĩ Lang, Huân Lang, Yến Lang, Tiêu Lang, Diệu Lang, Tĩnh Lang, Tập Lang, Ngọ Lang, Cấp Lang, Tiếu Lang, Hộ Lang, Thục Lang, Khuyến Lang, Chiêm Lang, Vân Lang, Khương Lang, La Lang, Tuần Lang, Tán Lang, Quyền Lang, Đường Lang, Kiều Lang, Dũ Lang, Ác Lang, Hãn Lang, Liệt Lang, Ưu Lang, Nhiễu Lang, Lý Lang, Thế Lang, Dạng lang, Tróc Lang, Sát Lang,Cốc Lang, Nhật Lang, Sái Lang, Chiểu Lang, Điềm Lang, Kiềm Lang, Trường lang, Thuận Lang, Tẩm Lang, Thai Lang, Triệu Lang, Ích Lang, gồm 50 trai theo lệnh cha. Hương lang, Thiêm Lang, Thận Lang, Văn Lang, Vũ Lang, Linh Lang, Tịnh Lang, Hắc Lang, Quản Lang, Cao Lang, Tế lang, Mã Lang, Chiếu Lang, Khang Lang, Chỉnh Lang, Đào Lang, Nguyên Lang, Miên Lang, Xuyến Lang, Yêu Lang, Thiếp Lang, Bái Lang, Tài Lang, Trừng Lang, Triệu Lang, Cố Lang, Lưu Lang, Lộ Lang, Quế Lang, Diêm Lang, Huyền Lang, Nhĩ Lang, Tào Lang, Nguyệt Lang, Sâm Lang, Lâm Lang, Triều Lang, Quán Lang, Canh Lang, Thải Lang, Lôi Lang, Thấu Lang, Việt Lang, Vệ Lang, Mãn Lang, Long Lang, Trình Lang, Tuấn Lang, Tòng Lang, Thanh Lang, gồm 50 trai theo lệnh mẹ.
Từ đó các hoàng tử đều đã có tên gọi, trưởng thành phương trưởng, ngồi chính tọa ở triều đường, vị thứ xếp trên các quan. Hiền vương bèn phong hầu riêng cõi, chia nước làm 15 bộ:
Một là Sơn Tây, hai là Sơn Nam, ba là Hải Dương, bốn là Kinh Bắc, năm là Ái Châu, sau là Hoan Châu. bảy là Bố Chánh, tám là Ô Châu, chín là Ai Lao, mười là Hưng Hoá, mười một là Tuyên Quang, mười hai là Cao Bình, mười ba là Lạng Sơn, mười bốn là Quảng Tây, mười lăm là Quảng Đông.” (Hùng Vương ngọc phả)
Lên rừng xuống biển, quốc tộ vĩnh truyền
Việc nước sau khi phân phong đã tạm yên, nhưng để cho việc nước yên ổn lâu dài, Lạc Long Quân đã tính đến việc chia các con ra khắp nơi từ trên rừng xuống dưới biển, chia nhau cai trị, bảo vệ bờ cõi và tạo phúc cho muôn dân. Quả thật là một kế sách vẹn toàn, mở ra tương lai vững chắc cho toàn quốc gia. Thời Lạc Long Quân trị vì nước Văn Lang vô cùng thái bình thịnh trị suốt mấy trăm năm.
“Trước đó Long Quân nói với Âu Cơ rằng:
– Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên, giống loài không hợp nhau, chung sống với nhau thực cũng khó. Vì thế ta phải lìa nhau thôi. Chia 50 con theo cha về biển, làm Thủy tinh. Chia 50 con theo mẹ về núi, làm Sơn tinh, làm hiển rạng cho các vương tử, trấn ngự khắp các vùng núi biển, đều là với danh nghĩa thần thuộc. Vua bèn đặt quan văn gọi là Lạc hầu, đặt tướng võ gọi là Lạc tướng; các vương tử gọi là Quan Lang vương, các vương nữ (công chúa) gọi là Mị Nương. Các quan hữu ti gọi là Bồ Chính.
Thời bấy giờ trên chính nhân luân, dưới hậu phong hoá, thi hành việc gì ai cũng được thích nghi. Vua vì thế được rũ áo khoanh tay, hòa mục trong chốn cửu trùng. Dân nhờ thế được đào giếng cấy ruộng, vui sống ở nơi thôn dã. Không một người dân nào bị xua đuổi không chốn sinh cư, không một vật nào không được yên bề nuôi dưỡng. Công thành trị định, đứng đầu so với các tiên vương, dẫu là phong hóa của thời thái cổ cũng không sánh kịp.”
Hùng Hiền vương hưởng nước dài lâu, đời đời cha truyền con nối, đều gọi là Hùng Vương. Ngọc lụa xe thư, núi sông một mối. Đó là Thuỷ tổ của Bách Việt. Hiền vương ở ngôi bốn trăm năm, sau về biển, hoá sinh bất diệt, trở thành Tiên, làm Động Đình đế quân.” (Hùng Vương ngọc phả)
Lạc Long Quân thần thông đại hiển, bảo hộ quốc gia
Lạc Long Quân không những là một vị Hùng Vương nổi tiếng nhất, Ngài còn là một vị thần bảo hộ cho dân tộc Việt Nam từ thời thượng cổ. Hễ dân có việc lại lớn tiếng gọi Long Quân rằng: “Bố ơi! Sao không lại cứu chúng tôi!”. Long Quân tới ngay, sự linh hiển của Long Quân, người đời không ai lường nổi. Các Thần tích mà Ngài vì dân trừ hại đến nay vẫn được ca tụng lưu truyền đến ngày nay.
Lạc Long Quân diệt Ngư tinh
“Ở biển Đông có con tinh ngư xà (còn gọi là Ngư Tinh) dài hơn năm mươi trượng, chân nhiều như chân rết, biến hóa vạn trạng, linh dị khôn lường, khi đi thì ầm ầm như mưa, lại ăn được thịt người nên ai cũng sợ.Thuở ấy có hòn đá Ngư Tinh, răng đá lởm chởm cắt ngang bờ bể, ở dưới đá có hang, Ngư Tinh sống ở trong đó. Vì sóng gió hiểm trở, không có lối thông, dân muốn mở một đường đi khác nhưng đá rắn khó đẽo. Thuyền của nhân dân đi qua chỗ này thường hay bị Ngư Tinh làm hại. Đêm kia có bọn người tiên đục đá làm đường đi để cho hành nhân có chỗ qua lại. Ngư Tinh bèn hóa làm con gà trắng gáy ở trên núi. Quần tiên nghe tiếng ngỡ rằng đã rạng đông bèn cùng bay lên trời.
Lạc Long Quân đánh Ngư tinh (nguồn: NTDVN)
Lạc Long Quân thương dân bị hại bèn hóa phép thành một chiếc thuyền của thường dân, hạ lệnh cho quỷ Dạ Thoa ở Thủy Phủ cấm hải thần nổi sóng, rồi chèo thuyền đến bờ hang đá Ngư Tinh, giả cách cầm một người sắp ném vào cho nó ăn. Ngư Tinh há miệng định nuốt. Long Quân cầm một khối sắt nung đỏ ném vào miệng cá. Ngư Tinh chồm lên quẫy mình quật vào thuyền. Long Quân cắt đứt đuôi cá, lột da phủ lên trên núi nay chỗ đó gọi là Bạch Long Vĩ, còn cái đầu trôi ra ngoài bể biến thành con chó. Long Quân bèn lấy đá ngăn bể rồi chém nó. Nó biến thành cái đầu chó, nay gọi là Cẩu Đầu Sơn. Thân trôi ra ngoài Mạn Cầu, chỗ đó nay gọi là Mạn Cầu Thủy (còn gọi là Cẩu Đầu Thủy). (Lĩnh Nam Chích Quái)
Lạc Long Quân diệt Hồ tinh
Thành Thăng Long xưa hiệu là Long Biên, hồi thượng cổ không có người ở. Vua Thái Tổ nhà Lý chèo thuyền ở bến sông Nhị Hà, có hai con rồng dẫn thuyền đi, cho nên đặt tên là Thăng Long rồi đóng đô ở đấy. Xưa ở phía tây thành có hòn núi đá nhỏ, phía đông gối lên sông Lô Giang. Trong hang, dưới chân núi, có con cáo trắng chín đuôi sống hơn ngàn năm, có thể hóa thành yêu quái, thành người hoặc thành quỷ đi khắp nhân gian. Con cáo chín đuôi biến thành người áo trắng nhập vào giữa đám dân Mán cùng ca hát rồi dụ dỗ trai gái trốn vào trong hang núi. Người Mán rất khổ sở. Long Quân bèn ra lệnh cho lục bộ thủy phủ dâng nước lên công phá hang đá. Cáo chín đuôi bỏ chạy, quân thủy phủ đuổi theo, phá hang bắt cáo mà nuốt ăn. Nơi này trở thành một cái vũng sâu gọi là “đầm xác cáo” (tức Tây Hồ ngày nay). Sau lập miếu (tức Kim Ngưu Tự) để trấn áp yêu quái. Cánh đồng phía Tây Hồ rất bằng phẳng, dân địa phương trồng trọt làm ăn, nay gọi là Hồ Đỗng (hang cáo). Đất ở đây cao ráo, dân làm nhà mà ở nay gọi là Hồ Thôn (thôn Cáo). Chỗ hang cáo xưa, nay gọi là Lỗ Khước Thôn.” (Lĩnh Nam Chích Quái)
Sau này đến thời Hùng Vương thứ sáu không tín Thần, làm nhiều điều sai phạm nên Trời giáng ngoại xâm. Sau khi Hùng Vương hối lỗi, Lạc Long Quân cũng hiện thân chỉ cho vua đi tìm Phù Đổng Thiên Vương đánh giặc cứu nước.
Lạc Long Quân còn dạy cho dân chúng cách ăn ở sinh sống cùng các phong tục tập quán tốt đẹp lưu truyền đến nay. Ngài cũng có thể coi là thủy tổ của nền văn minh Thần truyền cho dân Văn Lang vậy.
“Dân ở rừng núi xuống sông ngòi đánh cá, thường bị giao long làm hại nên bạch với vua.
Vua bảo rằng: Ở núi là loài rồng cùng với thủy tộc có khác, bọn chúng ưa đồng mà ghét dị cho nên mới xâm hại.
Bèn khiến lấy mực châm hình trạng thủy quái ở thân thể, từ đó tránh được nạn giao long cắn hại; cái tục văn thân của Bách Việt thực khởi thủy từ đấy.
Ban đầu quốc dân ăn mặc chưa đủ, phải lấy vỏ cây làm áo mặc, dệt cỏ ống làm chiếu nằm; lấy cốt gạo làm rượu, lấy cây quang lang, cây soa đồng làm bánh; lấy cầm thú, cá tôm làm nước mắm, lấy rễ gừng làm muối; lấy dao cày, lấy nước cấy; đất trồng nhiều gạo nếp, lấy ống tre thổi cơm, gác cây làm nhà để tránh nạn hổ lang; cắt ngắn đầu tóc để tiện vào rừng núi, con đẻ ra lót lá chuối cho nằm; nhà có người chết thì giã cối gạo để cho hàng xóm nghe mà chạy đến cứu giúp; trai gái cưới nhau trước hết lấy muối làm lễ hỏi, rồi sau mới giết trâu để làm lễ thành hôn, đem cơm nếp vào trong phòng cùng ăn với nhau cho hết, rồi sau mới tương thông; lúc bấy giờ chưa có trầu cau nên phải thế. (Lĩnh Nam Chích Quái).
Lời bàn:
Ngài là giống Rồng, kết hôn với Tiên nhân mà sinh ra dân Bách Việt. Sự kết hợp hoàn hảo của Rồng Tiên, giữa cao quý và bản lĩnh đến nay vẫn luôn là niềm tự hào và gắn kết gần trăm triệu dân Nam. Dẫu qua nhiều năm tháng đằng đẵng vinh nhục lên xuống, nhưng một niềm tin và cội rễ văn hóa thâm sâu vẫn giữ cho chúng ta tiếng nói và dáng hình của con dân Lạc Việt như hôm nay. Nếu không phải đại công đức, tinh hóa văn hóa của Lạc Long Quân di lưu lại từ xưa thì sao có thể làm đến như vậy. Vĩ đại thay đức Long Quân.
***
Truyền kỳ về 18 đời vua Hùng. Phần 3: Hùng Huy Vương khinh nhờn Thần linh mà suýt mất nước
Hùng Huy Vương, vua Hùng đời thứ 6 là một vị vua được nhiều người biết đến, không phải vì sự tài giỏi của ông, mà vì ông là nguyên nhân đem đến tai họa cho quốc gia đã thanh bình suốt mấy trăm năm.
May mắn thay, vua Hùng (Hùng Huy Vương) đã phản tỉnh kịp thời và điều đó đã giúp cho triều đại trung hưng một lần nữa. Tuy nhiên, cũng nhờ những nguy cơ đó mà chúng ta lại được dịp chứng kiến những Thần tích huy hoàng nhất trong suốt cả triều đại nhà Hùng.
Thịnh cực tất suy, khinh nhờn Thiên thượng
Trải 5 đời cai trị cực thịnh, nước Văn Lang truyền đến vua Hùng thứ 6 đã có dấu hiện suy thoái. Âu đó cũng là quy luật tự nhiên vì thịnh suy là lẽ thường của thế cục. Mọi việc bắt đầu từ khi Hùng Huy Vương bắt đầu khởi tâm nghi ngờ Thần linh, không còn tôn kính Thiên thượng như các bậc tiền nhân.
“Huy vương lên ngôi, noi theo quy chế của tiền vương, cũng có chí chăm việc nuôi dân. Nhưng kế thừa nền thái bình đã lâu, ngòi rãnh dễ tràn, cam chịu yến tiệc yên vui, không chịu khó nghĩ suy chính sự. Bấy giờ có Bà mo (vu nữ) tinh thông địa lý thông hiểu thiên văn, thường đem bí pháp thần cơ tâu vua, tự xưng là Tiên nhân, xin cho vào hầu trong cung để thưa đáp khi vua cần hỏi đến. Ngày sau đình thần có vị quan tâu rằng:
– Bà mo ấy mù tịt về mo sử, xem ra chỉ là một mụ đàn bà bình thường thôi! Chỉ giỏi bàn luận vu vơ, thực chẳng biết trời đất thiên địa. Sao vua lại cho mụ ta hầu cận, bàn nói chuyện hoang đường? Bọn thần cho rằng bệ hạ đã bị mụ ta làm mê hoặc.
Vua cho là phải, bèn sai bắt bà mo giam trong cung. Sau đó vua sai lập một đàn tế khác, cũng làm giả các voi trắng không ngà, voi đen ba chân, ngựa đỏ năm chân để cầu đảo với Thiên vương. Vua bảo đình thần:
– Trẫm dùng kế ấy để xem người bà mo có biết giả trá hay không?
Hoàng thiên tuy cao, nhưng nghe xong tỏ ý không bằng lòng, xem đến các đồ lễ thì hoàn toàn không linh ứng. Hoàng thiên bèn giáng tai ương để cảnh báo nhân quân không có đức.
Bấy giờ Hùng Huy vương mới nghiệm biết đạo Trời báo ứng ngay trước mắt. Bấy giờ vua cho đưa bà mo đến bảo: ”Ngươi biết dò xét huyền cơ, nay trong nước có triệu chẳng lành, ngươi có thể bay lên trời tìm hỏi xem lý do thế nào?
Bà mo bèn nằm thiếp trong khoảng ba canh rồi nói lảm nhảm như người đang chiêm bao. Ba ta nói mình đã đến trước cửa khuyết Thiên đình, tâu rằng: “Tôi vâng mệnh quốc vương lên tâu thiên đình: Nay trần thế đang có tai ương, chưa biết nguyên do nào gây nên như thế? Ngọc Hoàng phán:
– Ngươi mau trở về báo cho vua ngươi biết: Lưới trời lồng lộng, thưa mà không thể lọt. Trần hoàn lóc lóc , có cầu có nguyện tất được tòng tâm. Hùng Huy vương mù quáng kiêu căng, rông càn làm lễ vật giả dối. Đó là do Trời báo phạt, không chỉ giáng bấy nhiêu tai ương mà thôi. Ba năm sau [nếu không sửa chữa] tất sẽ có nạn giặc lớn!
Nghe phán xong, bà mo liền tỉnh lại. Bà mo tâu lại mọi chuyện với vua. Huy vương nghe nói cả kinh. vẫn cho bà mo ở lại trong cung để nghiệm xem lời nói của bà ta có nghiệm hay không. ” (Hùng Vương ngọc phả)
Trời giáng tai ương, tâm thành mới thoát nạn
Sau khi nghe những lời giáng tội của Thượng đế cho tâm khinh nhờn của mình, Hùng Huy Vương rốt cuộc cũng tỉnh ngộ kịp thời. Ông đã cố gắng hết sức để chuộc lỗi lầm với lòng thành, và may mắn thay Hoàng thiên đã chứng giám, non sông nước ta thoát khỏi một phen lầm than máu lửa.
“Huy vương lại sai triều quan dựng đàn ở Trung Đô, các lễ vật như voi ngựa vàng bạc đều dùng đồ vật thật ở trung cung. Khi lễ nghi đã đầy đủ, vua thân lên đàn đọc văn khấn tế:
– Ngu si lầm lỗi, đem vật uế dâng lễ Hoàng thiên. Sự hãy nhãn tiền, xét xem đủ thấy. Cúi xin Thượng đế chuyển họa làm lành, đội ơn vạn hạnh. Ngu si cúi ngước, cậy nhờ ơn đức Hồng quân!
Vua khấn xong, bỗng thấy mây cuồn gió cuộn nổi lên, trời mung lung chuyển sắc. Khói hương trên đàn tế bay lên hòa sắc cùng mây lành đang toả xuống.
Hùng Huy vương thảng thốt kinh sợ, khấu đầu lạy tạ rồi lên xe về cung. Vua lại sai bà mo lên thiên đình xin Hoàng thiên tha tội để nước nhà được yên. Bà mo trở về tâu với Huy vương:
– Vua biết hối lỗi, đã được Hoàng thiên xét soi. Tuy năm sau có giặc xâm lăng, nhưng trời cho nhân tài sinh ra để giúp nước, vua khỏi phải lo nghĩ nhiều!
Vua tin lời. Quả nhiên ba năm sau bỗng có tin từ biên cương đưa về cáo cấp: Tướng giặc Ân là Thạch Linh thần tướng khởi binh từ Bắc đạo tiến sang, giáo mác giáp trụ liên tiếp kín trời, tinh kỳ rợp đất, quả đúng như lời bà mo đã nói. Hùng Huy vương bèn cho đắp đàn tế, trai giới tịnh khiết rồi lên đàn thắp hương cầu khấn. Các quan triều đến dự hội tế suốt trong ba ngày. Sau đó mưa to sấm gió nổi lên, bỗng thấy một cụ già thân cao hơn 9 thước, mày râu bạc phơ đang cười nói nhảy múa ở chỗ ngã ba đường, ai trông thấy cũng phải lấy làm lạ, cho là bậc kỳ nhân. [Quan hầu] vào tâu vua, vua đích thân ra đón mời vào đàn tế, nói với kỳ nhân rằng:
– Nay quân Bắc sang xâm lăng, thắng thua chưa biết thế nào, xin lão ông cho chỉ giáo. Lão ông trầm ngâm hồi lâu, rút thẻ bói quẻ rồi đáp:
– Nếu tìm được người thì giặc này không đáng phải đánh dẹp!
Nói xong cụ già vút lên không bay đi. Vua thấy vậy biết đó là lời dạy của Lạc Long Quân. Thế là vua sai người hầu đi tìm khắp nơi trong nước” . (Hùng Vương ngọc phả)
Trời giáng ngoại xâm, Đổng Thiên Vương xuất thế cứu dân
Theo lời chỉ dẫn của Long Quân hiển linh, Hùng Huy Vương cho sứ giả đi khắp nước để tìm người dẹp giặc. Cuối cùng cũng tìm được ở làng Phù Đổng quận Vũ Ninh. Sự việc này chính là Thần tích “Phù Đổng Thiên Vương” ngàn đời nay vẫn còn lưu truyền.
Thánh Gióng đánh giặc Ân (nguồn: ntdvn)
“Sứ giả đến làng Phù Đổng quận Vũ Ninh (nay là huyện Tiên Du). Làng ấy có người nhà giàu tên là Ông Trưởng, ông 79 tuổi mà bà cũng đã 59 tuổi. Trước nhà có mảnh vườn trồng hoa. Sáng sớm ngày 6 tháng giêng năm Quý Hợi bà vào vườn hái hoa, thấy dấu chân người khổng lồ. Bà bèn gọi chồng cùng vào vườn xem, quả nhiên thấy có dấu chân của thần nhân. Ông chồng bảo bà vợ bước chân trái dẫm vào đó. Tự nhiên bà thấy cảm động trong người, rồi mang thai. Đến ngày 8 tháng Tư năm Giáp Tí bà sinh một con trai. Con được đúng một tuổi thì Ông Trưởng qua đời, chỉ còn mẹ già sáu mươi bú mớm nuôi con, lên ba tuổi đặt tên là Thiết Đổng, ăn uống lớn phỗng, nhưng không biết nói cười. Ngày hôm ấy cậu bé đang nằm trong võng, mẹ cậu nghe sứ giả đi rao khắp thiên hạ nói là tìm người có đại tài đi đánh giặc thì nói vui rằng: “Con ta chỉ biết ăn uống mà không biết đánh giặc để triều đình trọng thưởng quan tước mà trả ơn bú mớm cho mẹ”. Nghe mẹ nói thế, cậu bé bỗng bật ra lời nói:
– Xin mẹ gọi sứ giả vào đây!”
Khi sứ giả vào nhà, cậu bé nói:
– Ta là Thiết Xung thần tướng đây! Trời sinh ra ta để giúp nước, dẹp loạn cứu dân. Ngươi về triều thưa với vua cho ta một con ngựa sắt cao 10 thước, một cây roi sắt dài 10 thước, một chiếc nón sắt rộng 3 thước, đưa mấy thứ ấy đến đây cho ta là vua không phải lo gì nữa!
Sứ giả trở về chính điện ở núi Nghĩa Lĩnh tâu vua đầy đủ mọi việc. Vua cả mừng, sai tìm đủ 5.000 cân sắt để rèn thành ngựa sắt, vọt sắt, nón sắt. Đến giờ Mão ngày 7 tháng Giêng năm Bính Dần vua sai quan Tiết chế đem 10 vạn hùng binh đem ngựa sắt roi sắt nón sắt đến làng Phù Đổng. Thiết Đổng nói:
Vua theo đúng hẹn,
Vận nước lâu bền.
Quân giặc phải tan,
Một ngày giúp nước,
Thiên cổ danh vang.
Rồi Thiết Đổng nói với mẹ và họ hàng thân thích rằng: “Tính con hay ăn, xin soạn cho các món trâu rượu, hoa quả”. Dân lang nghe thế nhà nhà đem trâu rượu đến. Chỉ trong chốc lát Thiết Đổng đã ăn xong bữa tiệc lớn để lên đường đi giúp nước cứu dân.
Ngày hôm ấy mặt trời vừa đúng chính ngọ, Thiết Đổng cười vang một tiếng, đưa tay khịt mũi mười lần, tiếng vang như sấm, ánh mắt lóe sáng như chớp rồi vươn mình cao hơn 18 thước. Vì chưa kịp may quần áo nên sai 10 vạn quân đi bẻ hoa lau đem về kết thành đồ mặc. Thiết Đổng lạy tạ mẹ:
– Mẹ là Thánh mẫu, con là Thần vương. Một ngày lập công giúp nước, vạn năm hương lửa vô cùng!
Thiết Đổng nói xong nhảy lên ngựa, thét vang như sấm:
– Ta là Thiên tướng thần vương, vâng sắc chỉ xuống giúp nước!
Rồi quất ngựa phóng như bay, chỉ phút chốc đã đến dưới chân núi Vũ Ninh huyện Yên Việt đại chiến với Thạch Linh thần tướng bên sườn núi Vũ Ninh. Quân nước Ân thua to tan chạy. Thạch Linh thần tướng bị bắt sống chém đầu. Bọn giặc còn lại chưa diệt hết, nhưng roi sắt của Thiết Đổng thần vương đã bị rơi mất. Thần vương bèn nhổ lấy các bụi tre gai vung lên quét sạch các toán quân giặc! Khi đến núi Sóc xã Vệ Linh huyện Kim Hoa, Thiết Đổng thần vương bèn cởi bỏ bộ áo hoa lau, phóng ngựa bay lên không rồi cưỡi lên các đám mây mà bay đi. Nay nơi ấy vẫn còn dấu chân ngựa in trên lèn đá.
Nghĩ Thiết Đổng thần vương có đại huân lao giúp nước, nhưng chưa từng gặp mặt, không biết lấy gì báo đáp, Hùng Huy vương bèn truy tôn thần là Phù Đổng thiên vương, truy tôn bà mẹ làm Thánh mẫu, cho dựng đền thờ trên nền nhà cũ. (Nay ở xã Phù Đổng huyện Tiên Du và thôn Đổi Mã xã Vệ Linh huyện Kim Hoa có các đền miếu phụng thờ) Cấp cho làng Phù Đổng 100 khoảnh ruộng để đèn hương phụng thờ.
Vua lại cho xây điện Cửu trùng tiêu (điện cao chín tầng) trên núi Nghĩa Lĩnh làm Kính Thiên Linh Điện để thời thường cầu đảo, vâng lĩnh ý trời. Từ đó trong cõi thái bình, nước nhà vô sự. Nhà Ân trải 27 đời vua hơn 640 năm không dám đem quân sang đánh nước Nam. Hùng Huy vương hưởng nước 87 năm, thọ 100 tuổi thì băng (Mộ táng ở trước núi, hướng Kiền Tốn).” (Hùng Vương ngọc phả)
Lời bàn:
Thời kỳ Hùng Vương là Thần truyền chi trị, thời mà Thần người đồng tại, vậy mà sau 5 năm vẫn bị suy thoái, ấy là đạo Trời mà cũng là ứng vào nhân tâm suy vi của con người vậy. Hùng Vương thứ 6 tuy thế mà biết thành ý chính tâm tu sửa bản thân và chính trị, tôn kính Thần linh mà quốc gia lại lần nữa được trung hưng và vinh diệu thâm sâu nhiều đời sau. Có câu “Nhân pháp địa, địa pháp thiên, thiên pháp tự nhiên” ý chẳng phải thịnh suy của thời cuộc là do nhân tâm, muốn biến suy thành hưng ắt phải bắt nguồn từ chấn chỉnh nhân tâm mới là phương pháp hiệu quả nhất hay sao.
***
Truyền kỳ về 18 đời vua Hùng. Phần 4: Hùng Chiêu Vương – vua Thánh tu thân mà trị quốc
Quốc gia là nơi bậc Nhân vương thi hành đức chính, kính Trời tu thân mà thành tựu đạo quả, đem lại phúc báu cho toàn thể nhân dân. (Ảnh: NTD Việt Nam tổng hợp)
Thánh vương trị vì là điều mong mỏi của vạn dân từ ngàn xưa đến nay. Tấm gương về đạo đức của các Ngài luôn là những câu chuyện đẹp nhất trong lịch sử.
Dân Việt ta rất may mắn, dẫu qua nghìn năm đô hộ mà đến nay chúng ta vẫn còn biết rất rõ hành trạng của một trong những vị Thánh vương vĩ đại nhất từng cai quản dân Nam, đó là Hùng Chiêu Vương, húy Lang Liêu, vị vua Hùng thứ 7.
Thánh Nhân trị vì, thần tích triển hiện
Lang Liêu có lẽ là vị vua Hùng được nhiều người nhớ nhất trong lịch sử. Vì mỗi năm vào độ Xuân về, khi mấy chục triệu dân Việt quây quần ăn cỗ Tết với bánh chưng bánh dày ắt hẳn không ít người sẽ nhắc đến Ngài.
Sau khi vâng mệnh Trời lên ngôi với cuộc thi làm bánh lịch sử đó, Lang Liêu quả thực đã chứng minh rằng ông chính là chân mệnh Thiên Tử mà Trời chọn cho nước Việt. Vốn dĩ là một người tu Tiên, sống thuận Thiên Đạo nên thời ông trị vì đất nước thanh bình phồn vinh, cả xã hội hài hòa với người dân lương thiện hiền lành.
“Thái tử là Chiêu vương nối ngôi kế thừa đại thống. Vua cố gắng chuyên tinh chính trị, sau khi được kế thừa thanh thế đánh giặc vang lừng của vua cha bèn cho cất cung khóa giáp, tỏ ý không dùng binh nữa, chỉ lo an dưỡng muôn dân, sửa sang giáo hoá. Rồi đó lấy chuyện trước làm răn, không dám làm càn dâng lễ uế tạp khiến cho hoàng thiên giận giáng tai ương, giặc ngoài biên mấy lần xâm phạm, sáu đời thừa hưởng thái bình bỗng trở thành thời loạn. Từ đó vua kính sùng thiên đạo, kính thờ quỷ thần, phàm các nơi trên núi dưới biển ở đâu có hiển ứng linh thiêng đều sai trăm quan văn võ đến xây cất miếu điện, hoạ vẽ thánh tượng, thành tâm phụng thờ.
Vua bèn ngự điện Kính Thiên, cho xây cất Dao đài ngọc khuyết, tô vẽ cung tường, trang hoàng miếu vũ, bố trí nghi vệ nhất nhất trang nghiêm. Các đồ tế khí cũng đều cho vẽ rồng mây, ngày đêm đèn hương không ngớt. Hàng tháng cứ ngày sóc (mồng một) vọng (rằm) vua đều trai giới lên ngự điện coi chầu. Bên cạnh điện từ xưa có một ngôi chùa nguyên là nơi khi xưa Thượng thánh thường đến tu luyện thân tâm, chế thuốc linh đan hiệu dụng nhiệm màu, nhờ đó đắc pháp thành Tiên, hóa sinh bất diệt, giữa thanh thiên bạch nhật bay lên trời, về sau phát tích tại chùa này. Chùa được Thần Tiên bộ chúng giáng thế dực phù, núi sông chung đúc linh thiêng lạ đẹp, trời trăng tinh tú, Tứ đại Thiên vương, Bát bộ Kim cương, Nhị thập bát tú cùng bách thần tụ hội để theo hầu hộ vệ. Sơn tinh Thuỷ tinh, sông ngòi biển núi, trăm thú đến chầu, tất cả đều quy về một mối, xưa gọi là Từ Sơn cảnh Thừa Long tự (nay đổi là Thiên Quang thiền tự). Nay Hùng Chiêu vương cũng đến ngự ở chùa ấy, truyền cho bách quan tả hữu tu sửa trong chùa, cả bốn vách chùa đều cho vẽ các ảnh tượng màu sắc huy hoàng, xung quanh chùa trồng cây trồng hoa làm phong cảnh. Nền móng đã thành, bèn truyền hịch cho các châu huyện nơi nào có tăng ni, đạo sĩ đến hội đồng làm lễ thì được cấp phát áo mũ, tụ hội đạo chúng để thuyết pháp giảng giải chân kinh, khai mở nguồn đạo. Đạo chúng dâng cúng hương hoa, bốn mùa thơm phức.” (Hùng Vương ngọc phả)
Do kính phụng Thần linh, chăm lo giáo hóa dân chúng sống theo Thiên Đạo, nên Thiên Thượng đặc biệt chú ý đến nhà vua, và cũng cho phép Thần tích triển hiện trên vùng đất này một lần nữa:
“Hùng Chiêu vương lại sai quần thần mồng một và ngày rằm dâng lễ chay (trai lễ), hai ban văn võ đứng chầu nghiêm trang, vua kính cẩn đọc sớ dâng quả. Tháp cửu tiêu tuy cao, nhưng đèn hương dễ thấu áng mây lành; một tấm thành tâm cảm cách thông đến thiên địa. Cầu tất ứng, ước nguyện đều được tòng tâm. Bỗng thấy một lão ông mình vàng mặt ngọc cưỡi mây bay xuống. Vua lạy chào rồi mời lão ông vào trong điện chùa. Lão ông nói:
– Ta là thần miền Tây vực, cư trú lâu ngày ở Biển Giác, chu du trên thuyền Bát nhã (Trí tuệ), không nhiễm lòng trần. Nay ta đang đi phơi thuốc ở đường đến Niết Bàn, thấy nơi đây dân chúng lòng thành cảm cách, râm ran tiếng cầu kinh xướng kệ, cho nên ta cảm ứng mà đến đây. Vua mừng thầm: “Nhân tâm thành ý, thiên ý tất thông”
Trong chốc lát, cụ già lấy trong ống tay áo ra một chiếc móng rồng (long trảo) bằng ngọc đem trao cho vương. Liền đó một đám mây ngũ sắc hiện ra sáng lóa cả núi rừng. Lão ông bước lên đám mây ấy mà bay lên trời.” (Hùng Vương ngọc phả)
Mỗi độ xuân về, ngồi quây quần bên gia đình ăn cỗ Tết với bánh chưng bánh dày ắt hẳn không ít người sẽ nhắc đến Ngài. (Ảnh ET tổng hợp)
Quân quyền thần thụ, trời ban cho ấn kiếm
Xưa có câu “Quân quyền Thần thụ” nghĩa là quyền lực của Vua là do Trời ban. Nên nếu không có sự xác nhận từ Trời thì vua sẽ không đủ tư cách cai trị quốc gia và quốc gia đó cũng không tồn tại được. May mắn cho dân tộc ta có được sự dẫn dắt từ dòng dõi của Thần, các vị vua Hùng, đến thời Hùng Chiêu Vương, với sự trị vì sáng suốt và thành kính thờ Trời mà một lần nữa Trời giáng hạ Thần tích xác nhận quân quyền của nước Nam:
“Bấy giờ Hùng Chiêu vương mới biết đó là đức Phật bèn sụp quỳ lạy tạ. Ngày hôm ấy vua truyền cho bách quan triều thần ăn ở chay tịnh rồi lập đàn cúng ở chùa, cung thỉnh bách thần đến hội ở núi Thượng Linh. Lời chúc văn viết rằng: “Ngày hôm nay Chiêu vương tôi may mắn được gặp một vị lão ông tặng cho một cặp kỳ vật, không biết nên đem làm gì cho được quý báu? Chư vị thần linh nếu hay biết nguyện xin chỉ giáo cho”.
Chiêu vương vừa khấn xong bỗng thấy trên không rực sáng, rồi một đám mây lành sà xuống, Tứ đại thiên vương hiện lên giữa đàn. Thiên vương mình cao bảy thước, mày râu bạc trắng, đầu đội mũ hoa màu sắc rực rỡ. Chiêu vương lạy chào rồi mời thiên vương vào trong điện. Chiêu vương sửa sang áo mũ lạy chào. Thiên vương nói:
– Hai vật quý Lão ông đem tặng là của Hoàng Thiên thượng đế, vua hãy dùng vật ấy để chế ra một cái chuôi kiếm và một quả ấn phù, cần phải mài dũa cho thật sáng để làm vật quốc bảo. Nói xong Thiên vương lại bước lên mây mà đi.
Hùng Chiêu vương hướng về phía đầu núi mà vái vọng. Cũng nhân việc này vua cho đắp thánh tượng đặt ở trong chùa để phụng thờ. Rồi đó Chiêu vương ngự giá về cung, sai đem khối ngọc khắc thành quả bảo ấn, đem chiếc móng rồng bằng ngọc tạc thành cái chuối kiếm. Trên mặt ấn khắc 3 chữ “Thiên Linh ấn”, trên chuôi gươm cũng khắc 3 chữ “Thiên Lĩnh nhẫn” (nhẫn cũng là kiếm)”. (Hùng Vương ngọc phả)
Quân quyền thần thụ, trời ban cho vua ấn kiếm. (Ảnh ET tổng hợp)
Đắc Đạo thành Tiên, vĩnh sinh bất diệt
Từ khi còn là 1 hoàng tử, bản tính nhân hậu và trái tim thuần khiết đã khiến Lang Liêu được Thần linh phù trợ và giúp đỡ tu luyện. Sau này khi lên ngôi thành Hùng Chiêu Vương, ông còn được Thiên thượng nhiều lần triển hiện cho thấy phép màu. Trí huệ khai mở trước những quang cảnh Thần tích kỳ vĩ ấy đã khiến ông ngộ ra, tự nghiệm thấy người phàm quá nhỏ bé và kiếp người quá ngắn ngủi nên càng dốc lòng tu hành và cầu đắc Đạo, không quá quyến luyến ngôi cao điện ngọc kia nữa.
“Từ đó xã tắc vô lo, triều đình yên tĩnh. Vua nghiệm ra một điều rằng lẽ Trời rất mực huyền vi, đối với đạo Trời vua dốc lòng ngày một thêm sùng chuộng. Một ngày kia tiết trời tạnh sáng, muôn cảnh đều tươi mới, quần hồng áo tía đầy thành, người và cảnh vật dịu yên trong ánh thiều quang. Quần thần dâng lời tâu:
– Chúng thần nghe nói núi Tam Đảo là nơi quần Tiên thường hay đến hội. Vua vốn trọng việc quỷ thần, nên một phen đến đó ngoạn thưởng.
Vua bèn truyền cho xa giá đi ngắm xem phong cảnh. Xe loan đến nơi, Chiêu vương mừng thấy đồi vóc núi gấm, lâu đài lớp lớp toả sáng ngàn tầm; suối biếc khe xanh lặng tung bọt sóng. Cảnh vật tranh sắc, hoa cỏ đua thơm. Đầu ngọn núi nhỏ có ngôi chùa cổ tên là chùa Tây Thiên dựng trên khoảnh núi địa thế như con rồng trắng bay sà xuống. Vua bèn cho dựng đàn tràng, sửa dọn lễ chay, sai quần thần dâng tiến đứng chầu. Vua làm lễ bái yết, mở một tràng công đức ở trong chùa, vua thân đến dâng lễ, sớm cầu tối nguyện trong bảy ngày bảy đêm, trai gái bốn phương kéo về dự hội đông như mây họp. Mọi người cùng vui thăm xem cảnh vật. Dẫu chim chóc chốn sơn lâm cũng được nghe kinh, tuy cá tôm dưới khe suối cũng vui nghe giảng kệ. Công đức viên thành, vương lại đến bên khe Thạch Bàn để xem tiên cảnh. Bỗng thấy trên lầu điện nguy nga khói sương lấp lánh, bốn phía quần hội rồng mây, mông lung lâu đài đất Phật hiện lên. Một bầu núi non, đúng là cảnh Bồng Lai thú vị. Vua bèn vào chùa Phù Nghi, đứng xem Tiên Đàn, khấn nhẩm lời cầu nguyện Hoàng Thiên thượng đế. Rồi vua truyền gọi triều thần văn võ đến hội chầu. Khi mọi người đã sửa sang áo mũ nghiêm trang, vua đọc văn khấn chúc: “Cúi nguyện Hoàng thiên cho các vị thần tiên giáng xuống cho Chiêu vương tôi cùng triều thần có dịp hạnh ngộ, thỏa lòng mong ước ba sinh”.
Đọc chúc xong vua sụp xuống lạy tạ. Nhưng sau ba ngày vẫn không thấy bóng dáng của các vị Tiên. Hùng Chiêu vương hồi hộp lo lắng, nhưng không biết phải làm thế nào? Vua bèn đến chỗ núi Long Đầu hướng về Tiên Đàn mật khấn. Đêm ấy vua chiêm bao thấy một vị thần linh hiện lên bảo rằng:
“Tây đại sơn nhân thượng”
Bất kiến tâm hạ tướng.
Hội đông túc danh nhân,
Doãn cư thượng khẩu vượng.
Chiêu vương nhận được bài thơ thần bốn cấu đó xong liền xa giá về cung. Về đến dưới núi thấy một mỹ nhân phong tư xinh đẹp, cốt cách thanh cao đang đứng bên điện Cẩm Miếu xem xa giá nhà vua. Vương thích nhan sắc cô gái ấy, bèn lấy làm vợ. Đến khi về cung, Chiêu vương hỏi: “Nhà nàng ở đâu?” Cô gái đáp:
– Thiếp là tiên nhân giáng sinh xuống trần ở Đông Lộ làm con của Ông Trưởng. Thiếp đã mấy mùa hoa vịnh sử ngâm kinh, che châu giấu ngọc để đợi bậc anh hùng. Gần đây trộm nghe bệ hạ làm kinh động đến cả Tây Thiên, dựng đàn tràng muốn cầu Tiên tử. Thiếp vì thế dẫu chẳng phải xa xôi cũng đến xem, may duyên trời tiền định cho thiếp được gặp quân vương, xin nguyện phụng hầu nơi màn trướng không phụ nguyện ước ba sinh.
Chiêu vương nghe lời kể của mỹ nhân, biết hoàng thiên sai đưa tiên nữ đến cho mình. Thế là Chiêu vương sai quần thần sắm sửa sính lễ, rồi ngự xa giá đến nhà Trưởng Ông ở Đông Lộ xin nạp sính lễ. Rồi đó vương lên xe trở về kinh đô Phong Châu lập tiên nương làm vương phi chính nhất. Chưa đầy năm vương phi mang thai, rồi sinh một trai tư chất bẩm sinh thông minh, anh tài trác việt, đến tuổi trưởng thành được vua cha lập làm Thái tử nối quốc thống, hiệu là Hùng Vĩ vương. Về sau, Chiêu vương cùng hoàng phi nhờ có tiên thuật hưởng nước được 200 năm, tuổi thọ sánh ngang tuế nguyệt Kiều Bành, hoá sinh bất diệt.” (Hùng Vương ngọc phả)
Lời bàn:
Quốc gia là nơi bậc Nhân vương thi hành đức chính, kính Trời tu thân mà thành tựu đạo quả, đem lại phúc báu cho toàn thể nhân dân. Nước có giàu mạnh yên vui hay không chính là công đức của bậc thiên tử vậy. May nhờ những bậc vua chúa chân tu như Lang Liêu mà chúng ta mới có dịp nghe đọc những Thần tích huy hoàng từng xảy ra tại nước Nam, quả là đáng quý thay.
***
Truyền kỳ phần 5: Hùng Tuyền Vương – vị quân chủ cuối cùng của nền văn minh Thần truyền
Trận chiến Sơn Tinh – Thủy Tinh (Nguồn: NTDVN)
Hùng Tuyền Vương thứ 18 là vị vua cuối cùng của triều đại Văn Lang. Ông vốn là người tài giỏi và cũng là một vị vua xuất chúng. Tuy nhiên khí số của nhà Hùng đã tận, những gì ông có thể làm cũng không thể cứu vãn sự thay triều đổi đại.
Cũng như triều đại thứ 6 và thứ 7, vua Hùng thứ 18 (Hùng Tuyền Vương) cũng là một vị vua nổi tiếng được biết đến nhiều trong dân gian qua các Thần tích bắt nguồn từ những cô công chúa con của ông, những người đẹp nhất nước thời ấy và những người chồng siêu phàm của họ.
Tiên Dung – Chử Đồng Tử và sự tích Nhất Dạ trạch
Theo truyền thuyết thì vua Hùng thứ 18 có 2 người công chúa rất xinh đẹp là Mỵ nương Tiên Dung, Mỵ nương Ngọc Hoa. Hai người con gái này của An Dương Vương sau đều lấy những bậc vĩ nhân, tuy nhiên lúc mới lập gia đình thì không phải ai cũng có thể làm cho Hùng Vương ưng ý, đặc biệt là Chử Đồng Tử, chàng trai nghèo nhất nước thời bấy giờ.
“Hùng Vương có sinh được một người con gái tên là Tiên Dung Mỵ Nương, tuổi vừa mười tám, dung mạo tú lệ, nguyện không lấy chồng, chỉ thích ngao du thiên hạ. Vương chiều mà nghe theo. Mỗi năm khoảng tháng hai, tháng ba, nàng sửa soạn thuyền ghe, lênh đênh ngoài biển, vui chơi quên cả ngày về.
Lúc bấy giờ ở làng Chử Xá có người tên là Chử Vy Vân sinh được một người con trai tên là Chử Đồng Tử, hai cha con tính vốn hiền lành, nhà nghèo lại gặp nhà cháy, của cải khánh kiệt tận chỉ còn một cái khố vải, cha con ra vào thay đổi nhau mà mặc. Bị bệnh già, cha bảo con rằng:
– Ta chết thì chôn lộ thể cũng được, để cái khố lại cho con mặc kẻo xấu hổ.
Cha chết, người con không nỡ làm thế, cứ để cả khố mà chôn. Chử Đồng Tử bấy giờ thân hình trần truồng, đói rét khôn xiết, mới cầm cần câu đi đến bờ sông câu cá, trông thấy thuyền buồm đi qua, đứng dưới nước mà xin ăn. Nào ngờ thuyền của Tiên Dung bỗng đến đó; nghe thấy tiếng chuông trống đàn sáo, thấy những nghi trượng cờ xí, Đồng Tử sợ hãi, không biết trốn vào đâu, trông thấy trong bãi phù sa có chòm lau sậy, lơ thơ năm ba gốc, bèn ẩn thân vào đó, đào cát thành huyệt để giấu mình, lại lấy cát vùi lên trên. Giây lát, thuyền của Tiên Dung ghé vào đó; nàng dạo chơi trên bãi cát, truyền lấy mùng màn vây kín cả chỗ lau sậy để tắm.
Tiên Dung vào trong màn, cởi áo múc nước dội tắm; cát chảy, thân hình Đồng Tử lộ ra, hồi lâu Tiên Dung biết là con trai. Tiên Dung nói:
– Ta đã không thích lấy chồng, nay lại gặp người này cùng lộ thân với nhau trong một huyệt cát, có lẽ Trời khiến thế chăng? Thôi ngươi hãy dậy mà tắm rửa đi.
Rồi ban cho áo quần, cùng nhau xuống thuyền ăn uống hoan lạc; người trong thuyền đều cho là một sự gặp gỡ tốt lành xưa nay chưa từng có.
Đồng Tử nói rõ sự tích cho Tiên Dung nghe; Tiên Dung thương xót, bảo làm vợ chồng. Đồng Tử cố từ. Tiên Dung nói:
– Việc này tự Trời tác hợp, việc gì mà từ chối?
Những người tháp tùng vội đem việc ấy tâu lên với Hùng Vương; Hùng Vương giận bảo rằng:
– Tiên Dung không biết trọng danh tiết, không biết tiếc tiền của ta, đi chơi giữa đường lại hạ giá, lấy người nghèo, còn mặt mũi nào mà thấy ta nữa, từ nay mặc kệ nó, không cho trở về nước nữa.
Tiên Dung nghe tin, sợ không dám trở về mới cùng với Đồng Tử mở chợ búa, lập phố xá, cùng nhân gian mậu dịch, dần dần nơi ấy thành một ngôi chợ lớn (nay là chợ Hà Lõa); thương nhân ngoại quốc qua lại buôn bán, kính sự Tiên Dung Đồng Tử làm chủ.
Có một nhà đại thương đến nói với Tiên Dung rằng:
– Quý nhân xuất ra một thoi vàng, năm nay cùng với người nhà buôn ra ngoài biển mà mua vật quý, sang năm sẽ lời được một thoi.
Tiên Dung bảo Đồng Tử rằng:
– Vợ chồng ta do Trời định khiến, ăn mặc là của Trời cho, bây giờ nên lấy một thoi vàng cùng với người nhà buôn đi ra biển mà mua hàng đem về làm kế sinh nhai.
Đồng Tử bèn cùng đi với người nhà buôn; ngoài biển có một hòn núi tên là Quỳnh Viên Sơn; trên núi có một chiếc am nhỏ, người đi buôn ghé thuyền ở đấy mà múc nước; Đồng Tử lên chơi trên am, có một tiểu tăng tên là Phật Quang truyền phép cho Đồng Tử. Đồng Tử mới lưu lại am nghe thuyết pháp, giao vàng cho người đi buôn mua hàng, dặn lúc nào trở về thì ghé lại am để cho Đồng Tử về. Nhà sư mới tặng cho Đồng Tử một cái gậy và một cái nón, bảo rằng:
– Linh thông tại đây đó.
Đồng Tử trở về, đem chuyện đạo Phật nói hết với Tiên Dung, từ đó giác ngộ, bỏ chợ búa, nghề buôn, đem nhau đi tìm thầy học đạo. Một hôm trời đã tối mà chưa đến nhà trọ, họ mới ở lại giữa đường, cắm gậy úp nón lên trên để che. Đêm đến canh ba, thấy hiện ra thành quách, lầu son đền báu, đài các lăng miếu, kho tàng miếu xà, vàng bạc châu ngọc, chiếu giường, mùng màn, tiên đồng ngọc nữ, tướng sĩ thị vệ la liệt đầy ở trước mặt.
Sáng ngày ai trông thấy cũng lấy làm kinh dị, tranh nhau đem những vật hoa hương, ngọc thực đến dâng hiến và xưng thần. Văn võ bá quan phân quân túc vệ, biệt lập thành một nước.
Hùng Vương hay tin cho là con gái mình làm loạn mới phát binh đi đánh; quan quân đến rồi, quần thần xin phân quân án ngữ.
Tiên Dung nói rằng:- Chuyện này không phải tự ta làm ra, cũng là Trời run rủi; sinh tử tại Thiên, ta đâu dám chống cha, phải thuận chịu điều chính, chờ lệnh chém giết.
Lúc bấy giờ những người mới tập họp, sợ hãi mà chạy tán loạn, chỉ còn bọn người cũ ở lại với Tiên Dung.
Quan quân kéo đến đóng doanh ở bãi Tự Nhiên, chỉ còn cách một con sông lớn; ngày sắp tối nên chưa kịp tiến binh. Chừng đến nửa đêm, hốt nhiên gió lớn thổi làm nổi sóng đổ cây; quan quân đại loạn; bộ đảng, thành quách của nàng Tiên Dung nhất thời nhổ đi bay lên trời; đất ở chỗ ấy sập xuống thành một cái đầm lớn. Sáng ngày, dân gian không trông thấy thành nữa, cho là linh dị bèn lập miếu đường, thời thường đến tế, gọi đầm ấy là Nhất Dạ Trạch, châu ấy là Man Trù Châu (hoặc gọi là Tự Nhiên Châu), chợ ấy là Hà Lõa Thị.” (theo Lĩnh Nam Chích Quái- truyện Đầm Nhất Dạ)
Tiên Dung – Chử Đồng Tử “bạch nhật phi thăng” (nguồn: NTDVN)
Sơn Tinh Thủy Tinh, cuộc thi tuyển phò mã huyền thoại
Vì Hùng Tuyền Vương không có con trai mà chỉ sinh được những cô con gái xinh đẹp nên ngoài 1 con rể đắc Đạo về Trời là Chử Đồng Tử, thì cuộc thi kén rể cho một người con gái khác cũng đã đi vào huyền thoại mấy nghìn năm qua, chính là truyền thuyết Sơn Tinh Thủy Tinh.
“Tuyền vương kế nối chính thống, gồm đủ thánh triết, tài lớn anh hùng, kế thừa cơ đồ lớn lao 17 đời tổ đắp tông bồi. Trong sửa võ bị, ngoài giữ biên cương, dốc chí hưng thịnh trị bình, giữ yên trong nước. Xa noi nền trị của các bậc tiền vương, kính sùng thiên địa, kính thờ quỷ thần, trời ban phúc lành, mến giúp quốc sự. Vì thế vương càng gia tăng sùng chuộng, kính tín thần nhân, truyền hịch cho thần dân trong nước sửa thêm đền miếu, nghi vệ trang nghiêm, ngày ngày đều dâng hương hoa tỏ lòng thành kính phụng thờ. Châu huyện nào có quan cai quản thì mỗi tháng đôi lần viên quan ấy phải đến làm lễ mật khấn bách thần cầu nguyện cho mệnh mạch quốc gia dài lâu. Vương đích thân lên núi Nghĩa Lĩnh xem tôn điện của các tổ tông cùng linh điện các danh tướng của lịch triều, thảy đều cho sửa sang tu bổ. Tăng thêm tầng cao của các dãy tường bao, lâu đài muôn trượng vươn cao như cột chống trời, ánh sáng bừng lên khắp bốn phía. Cuốn đất một bầu phong cảnh, dựng đàn yết lễ, truyền cho văn võ triều thần sửa sang áo mũ một màu làm lễ chầu chính. Rồi đó vương và quần thần lên xa giá đi thăm các cung Tiên ở Tam Đảo, Tản Viên, xem khắp địa thế những nơi núi non lạ kỳ phong cảnh tươi đẹp, cho dựng các điện miếu, mật khấn cầu phúc cầu con. Nhưng đến thời này lịch số cáo chung, cơ đồ họ Hùng đã đến hồi kết thúc.
Tuyền vương chiêm bao thấy điềm rắn lớn, sau sinh được con gái hai nàng, đều là những trang thục nữ phụ đức trinh hiền, phong tư tuấn nhã, so ra thì Tề Khương, Tống nữ chỉ là hạng tầm thường, cha vua mẹ tiên, lứa duyên thật xứng hợp. Nàng chị là Mỵ Châu Tiên Dung công chúa, nàng em là Mỵ nương Ngọc Hoa công chúa, được vua cha hết mức yêu quý. Mỵ Châu sau được gả cho Chử Đồng Tử (ở xã Đa Hòa huyện Đông Yên phủ Khoái Châu xứ Sơn Nam). Còn Mỵ nương công chúa, phụ vương có ý kiến muốn tìm kẻ tuấn kiệt anh hùng nên giai kỳ chưa định. Vua bèn cho dựng hai ngôi lầu ở đầu núi Việt Trì, treo biển đề tên là Đãi Hiền Lâu (lầu đợi hiền tài), cho công chúa thứ hai đến ở lầu ấy. Tiếp đó truyền hịch truyền cho văn nhân tài tử khắp bốn phương đất nước đến hội ở kinh thành để thi tài, ai trúng tuyển sẽ được vua gả công chúa. Thế là bốn phương hào kiệt đều hoan hỉ nhảy múa, lũ lượt đông như mây họp kéo đến quốc đô. Hùng Tuyền vương đích thân ra đề ngự thí. Hiền tài trong thiên hạ đều có mặt cả ở trường thi Hội. Nhưng phần nhiều được mặt này thì mất mặt kia, cùng lóc lóc trôi tuột cả, đều chưa phải là bậc toàn tài của đương thời. Duy có Sơn Tinh và Thuỷ tinh là hai bạn đồng học cùng thầy, có nhiều thuật pháp thông thiên nhập địa nhưng không đến kịp để dự thi. Hai ngày sau hai người mới tới kinh thành, dâng lời tâu lên vua:
– Bọn thần thẹn nỗi kém tài, sống thừa trong vương quốc. Trộm nghe thánh thượng lớn mở khoa thi kén rể hiền. Bọn thần đến muộn, nhưng muốn được thi tài để gặp vận may không lọt ra ngoài hịch chiêu hiền của thánh thượng.
Hùng Tuyền vương cả mừng, bèn đặc cách lên xe đến sông Bạch Hạc ngự thí cho hai người. Sơn Tinh đến ngồi ở đầu sông, Thủy Tinh trở về dưới đáy nước. Trong khoảnh khắc bỗng thấy mây mưa nổi lên giữa dòng, mặt sông gió tung bụi cuốn. Đáy biển vang tiếng động ầm ầm, trên không chớp loè loang loáng. Giao long, rùa, cá từng đoàn theo sóng tung lên muôn vạn lớp; kình, ngạc, côn, nghê nuốt muôn sóng ngàn sông. Một bầu trời đất, muôn trũng sóng cuồn. Trong khoảng tranh tối tranh sáng, những ai trông thấy đều phải rụng mật run tim. Sơn Tinh tay trái cầm quyển sách, tay phải cầm cây trượng, miệng niệm thần chú. Tay chỉ vào đâu nơi ấy hiện lên muôn quái nghìn kỳ, thảy đều do trượng đầu vung quét. Một biến một hoá đều là diệu pháp thần cơ, huyền vi khôn lường.
Hùng Tuyền vương thấy hai hiền tài đều có phép thuật như nhau, không biết nên chọn gả công chúa cho người nào? Vua bèn lên xe trở về cung, triệu Sơn Tinh và Thuỷ Tinh đến bảo:
– Trẫm chỉ có một viên ngọc Lam Điền, ngày trước vua Thục cầu hôn không gả. Nay hai khanh đều là bậc anh hùng, chưa biết phải thẩm định thế nào cho tiện. Vậy ai đem sính lễ đến trước thì trẫm gả cho người ấy. Thế là Sơn Tinh và Thuỷ Tinh hẹn nhau:
– Bọn ta cùng trở về sửa soạn sính lễ, để xem ai là người đến trước?
Thuỷ Tinh trở về thủy cung ở Động Đình, lại còn phải tìm chọn lễ vật cho thật tân kỳ. Sơn Tinh thì chỉ xuống lầu cầm gậy trúc chỉ lên trời nhẩm khấn xin Ngọc hoàng ban cho các vật làm sính lễ. Khấn xong liền thấy voi trắng chín ngà cùng các đồ châu ngọc trân kỳ từ trên trời hiện xuống. Sơn Tinh bèn cho xếp đặt, vừa đúng giờ Tí (nửa đêm) đã đưa các đồ sính lễ đến trước lầu rồng của Tuyền vương. Tuyền vương bèn gọi công chúa đến báo cho biết đã gả Mỵ nương cho Sơn Tinh. Sơn Tinh bèn đưa rước ngay Mỵ Nương về sơn động ở núi Tản Viên. Đến giờ Mão Thuỷ Tinh cũng đem đủ lễ vật đến. Tuyền vương nói: “Sơn Tinh đã đem lễ đến trước rồi!”. Thuỷ Tinh tức giận bỏ về thuỷ cung.”
Khí số đã tận, Hùng Tuyền Vương bỏ nước tu tiên
Dù đã cố gắng tu dưỡng bản thân, trị vì quốc gia nhưng cả đời chỉ sinh được hai con gái, Hùng Tuyền Vương biết là khí số nhà Hùng đã tận, không thể cưỡng lại ý trời. Ông bèn thuận theo Thiên ý mà nhường ngôi cho An Dương Vương Thục Phán, quay về núi tu Đạo cùng con rể Sơn Tinh.
“Hùng Tuyền vương hưởng nước 115 năm rồi nhường ngôi cho rể là Sơn Tinh Tản Viên. Sơn Tinh cố từ không dám nhận. Tuyền vương nói:
– Cơ đồ họ Hùng đã hết, khanh có thể lên thay.
Tản Viên còn do dự chưa quyết thì Thục vương (là chúa Phụ đạo nước Ai Lao, cũng là tông phái Hùng vương) từ xa nghe tin Tuyền vương nhường ngôi cho Tản Viên, bèn đem quân sang đánh Hùng Tuyền vương để xâm chiếm nước Nam. Vua (Tuyền vương) binh hùng tướng mạnh, Thục vương mấy lần bị đánh bại. Vương bảo với Thục vương: “Ta có sức thần, Thục vương không sợ sao?”
Từ đó Tuyền vương bỏ bê không chăm sửa sang võ bị, chỉ đam mê tửu sắc làm vui. Đến khi quân Thục kéo đến tận nơi, vua vẫn còn say khướt chưa tỉnh. Quân lính trở giáo đầu hàng quân Thục.
Hùng Tuyền vương thu họp tàn quân, tuyển thêm dân binh, rồi sai người đưa thư cho Tản Viên, nói: “Thục vương đem quân sang đánh, đã chiếm đô thành của ta, khanh mau đem quân đến cứu viện”
Tản Viên bèn dẫn binh mã thẳng đến Loa Thành, dàn quân đối trận với Thục vương để khuếch trương thanh thế. Mấy hôm sau Tản Viên khuyên Hùng Tuyền vương:
– Họ Hùng hưởng nước kể cũng đã lâu dài. Lòng trời ắt có hạn, khiến cho Thục vương thừa cơ gây hấn xâm lấn nước ta. Vả lại Thục vương vốn là bộ chủ Ai Lao, cũng là dòng phái của tiền hoàng đế. Nay quốc thế không được bình thường, cũng là chuyện do tiền định. Vua có yêu riêng gì một cõi đất phương nam mà cưỡng lại ý Trời, làm hại sinh linh? Vả lại bệ hạ và thần đã có phép thần tiên, không gì hơn là quay về chốn Bồng Hồ, Lãng Uyển, tiêu dao ở làng quê bất lão, thanh nhàn nơi gác phượng lầu rồng, há phải nhiễm bẩn bụi trần, vàng ngọc châu báu cũng chẳng bằng mảy lông, ngọc nữ tiên đồng cũng chỉ mát mắt chốc lát. Trí lực như thế mới thật là cao!
Tuyền vương cho là phải. Rồi Tuyền vương sai đưa thư nhường nước cho Thục vương. Thục vương sai sứ đến tạ ơn. Tuyền vương trở về núi Nghĩa Lĩnh cùng với Tản Viên Sơn Tinh, biến hóa vào cõi hóa sinh bất diệt.
Thục An vương đã được nhường nước, tưởng nhớ ơn đức trời biển của Hùng Tuyền vương bèn xa giá đến núi Nghĩa Lĩnh cho dựng Dao Đài để làm nơi quốc gia phụng thờ, dựng hai cột đá trong núi, chỉ tay lên trời thề rằng:
– Nguyện trời cao mây xám lồng lộng xét soi: nước Nam trường tồn trường tại. Ngôi miếu Hùng vương nơi đây nếu vua sau kế trị mà bội ước nhạt thề thì sẽ bị rìu trăng búa gió trừng phạt, không phụ lời thề của tiền nhân.
Đọc lời khấn xong, Thục vương lạy tạ rồi lên xe trở về kinh đô Phong Châu, cho triệu các dòng phái cành vàng lá ngọc của dòng họ Hùng ban cho danh hiệu Trung nghĩa hương (làng Trung nghĩa), cấp cho dân tạo lệ hưởng dụng lâu dài, cấp 500 mẫu ruộng ở gò Nghĩa Lĩnh thuộc bản thôn. Lại cấp cho các cánh ruộng ở nhiều địa phương để thu tô thuế: trên từ Tuyên Quang, Hưng Hoá, dưới đến các xã ở Việt Trì hàng năm nộp hoa lợi để dùng vào việc đèn hương phụng thờ 18 đời vua Hùng từ Thánh tổ Cao hoàng đế đến các vua kế đời truyền nối.” (Hùng Vương ngọc phả)
An Dương Vương được Hùng Tuyền Vương nhường ngôi quản lý quốc gia (nguồn: NTDVN)
Lời bàn:
Một quốc gia nhỏ bé tồn tại mấy nghìn năm bên cạnh người khổng lồ Trung Hoa, kiên gan bền chí vượt qua vô số trận tử chiến lớn nhỏ để hiên ngang án ngữ bên bờ biển Đông đến tận ngày nay. Ngoài công sức máu xương của vô số tiền nhân, một nhân tố vô cùng quan trọng để giữ gìn quốc gia chúng ta trường tồn chính là công đức vô lượng của các đời vua Hùng truyền cho con cháu. Bằng cách trị quốc tuyệt vời nhất trong lịch sử, qua đó nhà vua cũng chính là một người tu luyện đắc Đạo, dùng công đức tu hành của mình để thờ Thượng đế, nhờ Thiên đình và Thần Phật ban phúc, duy hộ quốc gia được vĩnh truyền vạn thế.
Điều này cũng lý giải bí ẩn tuổi thọ hàng mấy trăm năm của một vua Hùng trong giai đoạn đó, vì người tu luyện là siêu thoát người thường nên tuổi thọ như thế hoàn toàn có thật, nhất là thời cổ đại. Ngoài ra, Thiên thượng ban phúc đồng thời cũng ban truyền cho nền văn hóa tinh hoa của Thần, nội hàm thâm sâu và bền vững. Cũng nhờ thế mà cha ông đã có đủ nội lực để có thể vượt qua 1000 năm Bắc thuộc đen tối, đủ sức dung hòa văn minh Hoa hạ vào văn hóa bản địa để hình thành nên nước Việt ngày nay. Và giờ đây chúng ta mới may mắn được nghe lại những Thần tích huy hoàng của ông cha qua Hùng Vương ngọc phả, quả thật là kỳ diệu và linh ứng vô cùng. Quả thật là:
Thiên thư định phận, chính thống triệu Minh đô, Bách Việt sơn hà tri hữu tổ
Quang nhạc hiệp linh, cố cung thành tụy miếu, Tam Giang khâm đái thượng triều tôn.
Nguyên văn Hán tự:
天書定分正統肇明都百粵山河知有祖
光岳協靈故宮成萃廟三江襟帶尚朝尊
Tạm Dịch:
Sách trời định chốn, chính thống dựng Minh đô, núi sông Bách Việt biết có tổ.
Núi tỏa linh thiêng, cung cũ lập miếu đền, một dải Tam Giang hướng về nguồn.
(nguồn: đôi câu đối tại đền Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh).
Lời kết
Thần thoại hay Truyền thuyết đôi khi là những câu chuyện hoàn toàn có thật, chẳng qua sự vô tình của thời gian và sự truyền miệng thêu dệt đã khiến người đời sau không tin tưởng vào nó nữa, cho nó chỉ là chuyện huyền hoặc… Vì lẽ con đường tu Đạo chân chính không còn rộng mở cho chúng sinh như thời thượng cổ – thời mà Nhân Thần đồng tại – nên người ta dần cho rằng những điều huyền diệu về Thần chỉ là chuyện cổ tích, càng làm cho Thần tích không thể triển hiện lần nữa nơi cõi đời này.
Và kết quả con người ngày càng tuyệt vọng trong vòng xoáy bất tận của thế giới công nghiệp hiện đại, mãi mãi không tìm thấy được niềm hạnh phúc thật sự. Thật may mắn thay cho những ai còn yêu thích sự kỳ diệu của thế giới cổ tích, mãi giữ cho tim mình một sự thuần khiết như trẻ thơ để có thể thấy được vẻ đẹp chân chính của thế giới này – một thế giới đã từng huy hoàng vì đã từng được Thần tạo ra.
Minh Bảo (NTDVN, 04.2022)