Trương Nhân Tuấn               (cập nhật ngày 13.01.2023)

Cuối năm nhìn lại Việt Nam thấy có vô số vấn đề cần được quan tâm, cần xét lại, hoặc cần giải thích lại. Từ kinh tế, chính trị, quốc phòng, giáo dục, y tế, pháp lý… cho tới những vấn đề lịch sử như chiến tranh VN, về lăng kính chính trị của tuyên giáo, vấn đề tham nhũng… Một số sự kiện đặc biệt, theo ý kiến chủ quan của tôi, cần được nhắc lại.

Đó là:

1/ Tình trạng thối nát cấp quốc gia, đảng viên CSVN “ăn của dân không từ một thứ gì”, xuyên qua hai vụ (Test Kits) Việt Á và “các chuyến bay giải cứu”.

2/ Từ vụ “cúp điện” buổi trình diễn ở Hà Nội của ca sĩ Khánh Ly sau khi bài “Gia tài của mẹ” được trình diễn.

3/ Chiến tranh Nga xâm lược Ukraine và chính sách “ngoại giao cây tre” của Việt Nam.

4/ Vấn đề Đài Loan và Biển Đông.

5/ Chuyện “hồi hương” cái ấn “Hoàng đế chi bảo” của vua Bảo Đại trở thành chuyện “hài hước” của các tập đoàn “báo lớn” hải ngoại.

 

1- Vụ Việt Á và vụ “Các chuyến bay giải cứu”

Vụ Việt Á, dưới cái nhìn của bộ Chính trị đảng CSVN, đó chỉ đó là một vụ “tham nhũng” đơn thuần. Trên BBC có bài báo cho rằng, vụ Việt Á “cho thấy quản lý nhà nước có vấn đề”. Báo chí còn đăng bài viết khác, cho rằng vụ Việt Á là một “hình thức lũng đoạn nhà nước”.

Theo luật Việt Nam, tham nhũng là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để hưởng lợi ích vật chất trái pháp luật, gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước, tập thể, cá nhân, xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức…

Tháng 6 năm 2022, sau khi họp Bộ Chính Trị kết luận:

Các đồng chí: Chu Ngọc Anh, Nguyễn Thanh Long, Phạm Công Tạc đã suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; vi phạm quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước; vi phạm Quy định về những điều đảng viên không được làm, Quy định trách nhiệm nêu gương; gây hậu quả rất nghiêm trọng, làm thất thoát, lãng phí lớn ngân sách nhà nước; ảnh hưởng đến công tác phòng, chống dịch Covid-19; gây bức xúc trong xã hội; ảnh hưởng xấu đến uy tín của tổ chức Đảng, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Y tế…”

Bộ Chính trị đóng khung vụ Việt Á ở các vấn đề chính trị, kinh tế và đạo đức của đảng viên. Nội dung này không ra ngoài nội hàm cán bộ tham nhũng. Không thấy Bộ Chính Trị nói một chữ về nạn nhân, hàng chục ngàn người, có thể chết oan vì kít Việt Á, chết vì các hành vi vô luân, vô đạo, phi nhân… của lớp “tinh hoa” trong đảng CSVN.

Báo “lề trái” nói ông Trọng đã “nghẹn ngào” khi ra quyết định (như trên) để kỷ luật các “đồng chí thân thương” của mình.

Theo tôi, vụ Việt Á không phải là một vụ “tham nhũng”, suy đồi đạo đức hay “trục lợi” đơn thuần. Hành vi “tham nhũng”, theo luật đã dẫn trên, chỉ đóng khung ở không gian kinh tế.

Thực tế cho thấy đã có chết người. Nạn nhân là hàng chục ngàn người đã chết. Vụ Việt Á lý ra phải xử như một đại án giết người có tổ chức.

Đảng lãnh đạo toàn diện nhà nước và xã hội. Nếu “quản lý nhà nước có vấn đề”, nói như BBC, thì vấn đề ở đây chính là đảng.

Cũng không thể có cái gọi là “lũng đoạn nhà nước”, với ý nghĩa nhân sự Việt Á sử dụng tiền bạc để điều khiển công chức nhà nước.

Đây là cách tác giả phê phán “bẻ cổ logic” và đơn thuần dựa trên kinh tế.

Vụ Việt Á cũng không đơn giản là một chỉ dấu “suy thoái” (về tư tưởng, chính trị, đạo đức…) của một số quan chức.

Sự việc xảy ra tuần tự là: Việt Á mua kít của TQ với giá rẻ (như bèo) khoảng 1 đô la/kit. Bộ quốc phòng nhập cuộc, qua đại diện là “Học viện Quân y”, biến kít TQ thành sản phẩm phát minh khoa học nội địa. Tới phiên Bộ Khoa học, Bộ này “bảo kê” kít Việt Á là hàng thứ xịn, do quốc nội sáng chế, được chuẩn nhận phẩm chất ngang hàng kít quốc tế. Kế tới là Bộ Y tế. Bộ này ra đủ thứ luật lệ buộc dân chúng phải thử nghiệm “đại trà”, ai cũng có thể bị ép ngoáy mũi thử nghiệm. Giá kít được đội lên 470.000 đồng/ kít.

Cuối cùng (trùm cuối) ra chỉ thị khuyến cáo các cơ sở y tế địa phương phải mua kít Việt Á trong chiến dịch “chống dịch như chống giặc”. (Trùm này có vẻ là Vũ Đức Đam?)

Hàng chục ngàn người dân đã có thể không bị chết oan. Hàng ngàn xí nghiệp đã có thể không bị phá sản. Hàng trăm ngàn, thậm chí hàng triệu cá nhân, gia đình… gia sản đã không bị tiêu tan, gia đình không bị ly tán (do cách ly). Vô số gia đình nhuốm cảnh tang thương, của mất, người chết…

Ngoài việc gây thiệt hại kinh tế, “hệ thống Việt Á” còn giết chết nhiều người và gây xáo trộn xã hội. Tổn thất kinh tế chưa thể kiểm kê. Suy trầm kinh tế dĩ nhiên có đóng góp của hệ thống Việt Á.

Nhưng trầm trọng hơn cả là cú chấn thương tâm lý và đạo đức.

Dân nhìn cán bộ đảng viên như những kẻ tội phạm.

Đó là chưa nói tới vụ “các chuyến bay giải cứu” của Bộ Ngoại giao.

Còn lại gì ở cái gọi là “nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam” qua các vụ này?

Không đơn thuần chỉ là tham nhũng. Cũng không hẵn là do nhà nước yếu kém trong mục quản lý. Cũng không phải là nhà nước bị lũng đoạn.

Luật lệ không ra gì thì tất cả những gì của nhà nước là một cái thây ma thúi nát. Thúi nát toàn diện. Hệ thống Việt Á, bao gồm các bộ quốc phòng, bộ y tế, bộ khoa học công nghệ… cho tới “các chuyến bay giải cứu” của bộ ngoại giao.

Đảng viên nào có quyền lực đảng viên đó thúi nát.

Tất cả nhân sự lãnh đạo “nhà nước và xã hội” hiện nguyên hình là những con giòi đang rỉa rói cái thây ma tên gọi “nhà nước pháp quyền XHCNVN”.

Tội giết người, do cố ý hay do vô tình, cũng là tội giết người. Tội phá hoại nền kinh tế quốc dân là chống lại lợi ích của nhân dân và đất nước.

Ông Trọng xử các đảng viên của đảng ông bằng kỷ luật đảng, trên quan điểm đạo đức, buộc họ “chịu trách nhiệm chính trị” bằng cách cảnh cáo, hay nặng hơn là đuổi họ ra khỏi đảng. (Điển hình Vũ Đức Đam).

Còn trách nhiệm hình sự của đảng viên (như Vũ Đức Đam) về các tội giết người, các tội phá hoại nền kinh tế quốc dân, tội gây xáo trộn xã hội và bần cùng hóa đời sống đại đa số nhân dân thì sao?

Riêng cá nhân ông Trọng, ngoài trách nhiệm liên đới đối với các đảng viên dưới quyền, về các tội trạng đã dẫn trên. Ông còn có trách nhiệm hình sự về tội bao che đàn em phạm tội.

 

 2- Vụ “Gia tài của mẹ một bọn lai căng”

Vụ sô nhạc “Mùa thu Hà Nội” của bà Khánh Ly (KL) ở Hà Nội ngày 24 tháng 9 bị “cúp điện”, cho thấy bà bị tuyên giáo VN trừng phạt, sau khi bà hát bài “Gia tài của mẹ” (không có trong danh mục bài hát được trình diễn) trong buổi trình diễn vào tháng 6 ở Đà Lạt.

Các “chiến sĩ trên mặt trận văn hóa” núp dưới các nick Facebook “chửi” bà Khánh ly vụ “gia tài của mẹ” không tiếc lời. Báo chí trong nước có bài nói bà KL “tráo trở”. Có bài báo vịn vào “luật”, cho rằng bà Khánh Ly có thể bị phạt vì hát các bài hát chưa được phép.

Vấn đề là vụ “cúp điện” hội trường trước giờ mở cửa khiến nhà tổ chức phải hủy sô, hiển nhiên không phải là một cử chỉ văn minh của giàn lãnh đạo thủ đô Hà Nội. Nó cũng không phải là “hành vi có giá trị pháp lý”, đến từ một quyết định pháp lý của nhân sự có thẩm quyền.

Theo luật, bà KL bị phạt vì hát nhạc cấm. Và theo luật, lãnh đạo thủ đô Hà Nội ngàn năm văn hiến phải là phía bồi thường thiệt hại cho người tổ chức sô nhạc Mùa thu Hà Nội (vì hành vi vô văn hóa, phản văn minh).

Tuyên giáo xài “luật rừng” với ca sĩ Khánh Ly.

Luận về công – tội trong công cuộc “chống Mỹ cứu nước”, theo tôi, thay vì tuyên giáo viết báo chửi bậy bà KL dưới các bút hiệu nặc danh (và thủ đô Hà Nội nhỏ nhen trả thù vặt), đảng CSVN nên tạc tượng thờ bà KL ở trước lăng Ba Đình, trái tim của thủ đô hòa bình thế giới, dựng song song với tượng Trịnh Công Sơn (TCS). Công lao “giải phóng miền Nam, đánh cho Mỹ cút ngụy nhào” của hai nhân vật phản chiến này rất lớn, không hề thua Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp.

Không có KL thì nhạc TCS không ai biết tới. Không có nhạc TCS thì bà KL cũng chỉ là một ca sĩ tỉnh lẻ vô danh. Hai bên hợp lại tất cả thành danh.

Nhờ các bản nhạc phản chiến của TCS và với giọng hát “cần sa” của bà KL mà quân của CS miền Bắc giành được chiến thắng.

Một đạo quân đông đảo cách mấy, trang bị vũ khí tối tân tới đâu cũng không ăn thua. Thiếu ý chí, không có tinh thần chiến đấu thì đạo quân đó phải thua. Chớ quân VNCH có tinh thần vệ quốc như quân Ukraine thì sẽ không bao giờ có vụ “debellatio” năm 1975.

Tuyên giáo CSVN bày đặt chống đối khi bà KL hát bài hát có những câu: “một ngàn năm đô hộ giặc Tàu, một trăm năm nô lệ giăc Tây, hai mươi năm nội chiến từng ngày, gia tài của mẹ một bọn lai căng…”.

Tuyên giáo CSVN dị ứng với hai chữ “nội chiến” và “lai căng”.

Nhưng đối với phe VNCH, những lời hát này như những trái đạn bắn phá vào thành trì của họ. Không có con người văn minh, có tình có nghĩa nào lại muốn cảnh “gà nhà bôi mặt đá nhau” suốt 20 năm hết cả.

Về bài “Gia tài của mẹ”, theo tôi, rất phù hợp trở thành bài “quốc ca VN” thời cộng sản trị hiện nay. Bài sáng tác (nghe nói) năm 1965 mà câu chữ “linh nghiệm” như là “sấm truyền”.

“Gia tài của mẹ một bọn lai căng”.

Lai căng là gì? Định nghĩa của Việt Nam, “lai căng” là hiện tượng có pha tạp nhiều yếu tố ngoại lai sống sượng, lố lăng. “Lai căn” (không g) là mất gốc.

CSVN rõ ràng là là một “bọn lai căn(g)”. Thờ Marx, thờ Lenin, thờ lý thuyết cộng sản là thờ chủ nghĩa “ngọai lai”, là “mất gốc”.

Mô hình nhà nước VN rập khuôn mô hình nhà nước TC. Ông Trọng bắt chước từ câu chữ, từng ý tưởng của Tập Cận Bình. Đúng là vừa sống sượng vừa lố lăng.

Đảng CSVN còn là là một lũ “bội tình”.

Gia tài của mẹ một lũ bội tình”. Bội tình, bội nghĩa, bội ước. Kiểm lại lịch sử 70 năm đảng CSVN chưa bao giờ làm được một điều gì đó phù hợp với truyền thống đạo lý VN.

Ông Hồ ra lịnh giết bà Cát Hanh Long, kẻ ơn của cá nhân mình và cũng là người ơn của cả đảng CSVN. Không có vàng của bà thì ông Hồ lấy gì hoạt động? Lấy gì đút miệng bọn tướng Tàu ? Không có số vàng này thì toàn bộ lực lượng của ông Hồ (ở bắc vĩ tuyến 16) bị quân Tưởng tiêu diệt. Quyền hành đất nước sẽ lọt vô phe Việt Nam Quốc dân Đảng.

Đây là một vụ sát nhân nhưng bản chất là bội tình, bội nghĩa.

Vụ giết chết Lê Đình Kình, đảng CSVN cạn tàu ráo máng với đồng chí. Đó là bội tình. Tình ở đây là “tình đồng chí”.

Đảng viên cộng sản, khi chưa nắm quyền, họ hứa hẹn “lấy của người giàu đem chia cho người nghèo”.

Thấy gì, sau khi đảng CSVN “cướp” được chánh quyền?

Đảng viên CS cũng hứa hẹn “lấy ruộng địa chủ chia cho nông dân”.

Họ cam kết đánh đuổi giặc ngoại xâm sẽ xây dựng một nước VN “độc lập, tự do, hạnh phúc”.

Chỉ thấy toàn là bánh vẽ và một phường bội bạc.

Độc lập là dân tộc độc lập. Làm gì có độc lập khi đảng CSVN rập khuôn, từ tư tưởng tới hành vi của TQ và lãnh đạo TQ? Việt Nam hiện thời là chư hầu trung thành của TQ.

Tự do là dân quyền tự do. Bản nhạc “Gia tài của mẹ” sáng tác cách đây hơn 1/2 thế kỷ, không hề có tư tưởng phản động hay kích động hận thù. Lý lẽ bài ca là “chống chiến tranh” và kể chuyện “lịch sử”. Bài ca bị cấm trình diễn.

Tự do ở đâu?

Toàn bộ các cơ quan truyền thông, ngôn luận đều nằm trong tay đảng. Toàn bộ đại biểu quốc hội là đảng viên, hoặc phò đảng.

Hầu hết chùa chiền, tăng ni nếu không là “cơ sở kinh tài” thì cũng là cơ quan tuyên truyền đạo Phật theo định hướng của đảng.

Đâu là tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, tự do chính kiến?…

Hai mươi năm nội chiến từng ngày”. Tuyên giáo VN còn bắt bẻ câu “hai mươi năm nội chiến từng ngày. Tuyên giáo VN trước khi bắt bẻ người khác về từ “nội chiến” thì phải cho người dân biết “nội chiến” có ý nghĩa là gì?

Theo luật về chiến tranh (của công pháp quốc tế chớ không phải theo chữ nghĩa “lính thủy đánh bộ” của tuyên giáo) thì thuật ngữ “chiến tranh – war” chỉ sử dụng riêng biệt cho “chiến tranh quốc tế”, xảy ra giữa “quốc gia – state” và “quốc gia – state”.

Còn “nội chiến – guerre civile – civil war” thì ý nghĩa khá rộng. “Chiến tranh giải thực”, kiểu chiến tranh “đánh Pháp”, đuổi Mỹ v.v… đều được (công pháp quốc tế) xếp vào mục “nội chiến”.

TCS viết bài “Gia tài của mẹ” năm 1965, trong đó có câu “20 năm nội chiến từng ngày”. Viết sai ở chỗ nào mà bắt bẻ?

Trong một cuộc “nội chiến” sự hiện diện của yếu tố “bên ngoài” là chuyện thường tình. Quân Mỹ có mặt ở miền Nam VN cũng như quân TQ, cố vấn Liên Xô, quân chí nguyện Triều Tiên… có mặt ở miền Bắc VN.

Chiếu theo “luật” thì không thể bắt bẻ TCS về một ý tưởng, một lập trường chính trị… của ông này đã thể hiện từ 1/2 thế kỷ trước.

“Gia tài của mẹ để lại cho con. Gia tài của mẹ là nước Việt buồn”.

Nước Việt chưa bao giờ buồn như hôm nay.

Rừng đã hết và biển đã chết. Người Việt muốn sống cho ra vẻ con người thì phải bỏ nước ra đi. Số may mắn qua được Mỹ, Anh, Pháp… Số không may phải làm dâu, làm tì, làm lao động ở các xứ mà trước kia thua xa VNCH về mọi mặt.

Bài “Gia tài của mẹ” điển hình là bài “quốc ca” của VN hôm nay. Bài quốc ca thể hiện đúng mức tình trạng thê thảm của đất nước và dân tộc VN dưới triều đại nhà Hồ.

III –  Vấn đề Đài loan và Biển Đông

Đối với Việt Nam, Đài Loan và chuyện tranh chấp Biển Đông là hai chuyện riêng biệt.

Từ lâu VN nhìn nhận chính quyền CSTQ ở Bắc kinh là pháp nhân đại diện chính thức cho Cộng hòa nhân dân trung quốc tại LHQ và Đài Loan là một lãnh thổ không thể tách rời của TQ. Tức VN nhìn nhận “vấn đề Đài Loan” là chuyện nội bộ của Trung quốc.

Về vấn đề Biển Đông, VN quan niệm “VN có chủ quyền không tranh cãi đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, quyền chủ quyền, quyền tài phán đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa ở Biển Đông theo Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982”.

Nhưng đối với TQ cả hai vấn đề tựu trung chỉ có một: Cả hai đều là “chuyện nội bộ” của TQ.

Quan điểm của TQ về vấn đề Đài Loan: Đài Loan và lục địa đều thuộc về một nước Trung Hoa duy nhứt. Năm 1979 Mỹ đoạn tuyệt ngoại giao với chính quyền Đài Loan và chính thức công nhận Bắc Kinh. Từ đó Mỹ chấp nhận “nguyên tắc một Trung Hoa duy nhứt”.

Về biển Nam Trung Hoa (tức Biển Đông theo VN): TQ có chủ quyền các quần đảo hợp thành “Tứ sa”, TQ có các quyền lịch sử, các quyền hàng hải, vùng biển quần đảo, vùng biển EEZ và thềm lục địa phát sinh từ các đảo.

Về phán quyết của Tòa PCA 12-7-2016, TQ không nhìn nhận thẩm quyền của Tòa, đồng thời TQ cho rằng phán quyết của tòa không có giá trị vì Tòa không có thẩm quyền phân xử (Intra vires – vượt quyền). Vụ kiện 12-7-2016 Philippines kiện TQ theo “thủ tục bắt buộc” của Phụ lục VII UNCLOS về việc “giải thích và cách áp dụng Luật Biển”.

Với lập trường như vậy công cuộc “thống nhứt lãnh thổ” Đài Loan và các đảo Biển Đông sẽ là chuyện “nội bộ” của TQ.

Nội dung các bài nói chuyện của Tập Cận Bình trong kỳ Đại hội đảng CSTQ lần thứ XX tháng 10 vừa qua ta thấy các câu nói mang tính khẩu hiệu như “Việc thống nhứt đất nước là sứ mạng của đảng CSTQ”, “không để việc thống nhứt đất nước cho các thế hệ tương lai”… Tập Cận Bình cũng có những tuyên bố đại khái rằng sẽ không loại trừ việc sử dụng quốc phòng để thực hiện việc này.

Tháng 6 năm 2022 TQ công bố “đề cương hoạt động quân sự phi chiến tranh”. Báo chí nước ngoài bình luận về một hành lang pháp lý mới, khá đặc biệt. Nhiều ý kiến so sánh việc này với động thái tương tự của Duma Nga trước khi mở “chiến dịch quân sự đặc biệt” ở Ukraine.

Tức là TQ sẽ ra một bộ luật cho phép quân đội sử dụng vũ lực mà không phải tuyên bố chiến tranh, tương tự như “chiến dịch quân sự đặc biệt” của Nga.

Điều cần bàn là “đề cương” này có hiệu lực vào lúc nào và TQ sẽ áp dụng ở không gian nào?

Ngoài ra TQ còn có tranh chấp chủ quyền quần đảo Điếu Ngư, tức Senkaku, với Nhật.

 

IV-  Chiến tranh Nga xâm lược Ukraine nhìn qua chính sách “ngoại giao cây tre” và “quốc phòng bốn không” của Việt Nam.

Năm qua Việt Nam (ít nhứt) ba lần bỏ phiếu trắng trước Đại Hội đồng LHQ về các vấn đề liên quan đến cuộc xâm lược của Nga đối với Ukraine.

Lần thứ nhứt vào ngày 1 tháng 3 năm 2022, nghị quyết Đại hội đồng LHQ lên án cuộc xâm lược của Nga đối với Ukraine, trong buổi họp khẩn cấp của Đại hội đồng LHQ lần thứ 11. Lần thứ hai, ngày 24 tháng 3, nghị quyết của Đại hội đồng LHQ về việc yêu cầu bảo vệ thường dân trong cuộc chiến. Lần thứ ba ngày 12 tháng 10 năm 2022, nghị quyết LHQ kêu gọi thế giới lên án chống việc Nga sáp nhập bốn vùng lãnh thổ của Ukraine vào lãnh thổ Nga.

Đó là chưa kể đến lần Việt Nam bỏ phiếu chống lại đề nghị trục xuất Nga ra khỏi Hội đồng nhân quyền của LHQ ngày 7 tháng 4.

Việt Nam không lên án Nga xâm lược Ukraine. Việt Nam không yêu cầu Nga tôn trọng sinh mạng của người dân trong chiến tranh. Việt Nam không chống Nga sáp nhập lãnh thổ Ukraine vào lãnh thổ nước Nga.

Đồng tiền có hai mặt: mặt phải và mặt trái. Việt Nam không chọn mặt nào nhưng thực ra Việt Nam đã chọn bên: Việt Nam chọn đứng bên ngoài cộng đồng các quốc gia văn minh.

Ta có thể giải thích ra sao về quyết định “đứng ngoài cộng đồng văn minh” của Việt Nam trong cuộc chiến Nga xâm lược Ukraine?

Để ý sự lựa chọn của Trung cộng.

Như Việt Nam, Trung cộng cũng ba lần bỏ phiếu trắng, không chống cũng không ủng hộ Putin. Trung cộng nói là họ “đứng bên lẽ phải của lịch sử trong cuộc khủng hoảng Ukraine”.

“Lẽ phải của lịch sử” đó là trong cuộc chiến này chỉ Trung cộng là phía có lợi.

Nga thắng, có nghĩa là Mỹ “bỏ” Ukraine. Trung cộng có lợi về địa chiến lược. Các quốc gia ASEAN và Đông Á, nhứt là Đài Loan, sẽ không còn “niềm tin chiến lược” đối với Mỹ nữa. Trung cộng sẽ làm vua một cõi ở khu vực Ấn Độ-Thái Bình Dương.

Nga thua, Trung cộng càng có lợi vì Trung cộng có thể áp đặt ý chí của mình về các vấn đề lãnh thổ, năng lượng, chuyển giao công nghệ… đối với Nga.

Trung cộng còn có lý do khác để bỏ phiếu trắng.

Putin và Tập Cận Bình nhiều lần khẳng định hai bên Nga-Trung là một “liên minh không giới hạn lãnh vực”.

Trước chiến tranh quốc hội Nga ra luật về “hoạt động quân sự” bên ngoài lãnh thổ mà không tuyên bố chiến tranh. Luật này cho phép Putin xâm lược Ukraine dưới danh nghĩa “chiến dịch quân sự đặc biệt”.

Tháng 6 năm 2022, Trung cộng công bố “đề cương hoạt động quân sự phi chiến tranh”. Trung cộng rập khuôn Nga, công bố đề cương “hoạt động quân sự phi chiến tranh” ở ngoài lãnh thổ để làm gì?

Ta có thể liên tưởng Trung cộng đang chuẩn bị mở những cuộc chiến, với danh nghĩa tương tự “chiến dịch quân sự đặc biệt” của Putin, tại Đài Loan, Điếu Ngư và Biển Đông.

Trung cộng bỏ phiếu trắng, không chống Nga, vì Trung cộng có thể sẽ làm những thứ mà Nga đã làm.

Nhưng đối với Việt Nam, hành vi lựa chọn đứng ngoài cộng đồng văn minh nhân loại của Việt Nam, sẽ đem lại lợi lộc gì cho quốc gia, dân tộc?

Thái độ bỏ phiếu trắng của Việt Nam có nghĩa là Việt Nam không có ý kiến, thứ nhứt, ở vấn đề “dân tộc tự quyết” ở hai vùng Donetsk và Luhansk của Ukraine.

Thứ hai, Việt Nam không ý kiến về hành vi một quốc gia (Nga) sử dụng vũ lực xâm lược một quốc gia độc lập có chủ quyền (Ukraine).

Thứ ba, Việt Nam không có ý kiến về việc một quốc gia (Nga) sáp nhập một vùng lãnh thổ (Crimée, Donetsk, Luhansk…) của một quốc gia độc lập có chủ quyền (là Ukraine).

Nhắc lại vài chi tiết lịch sử: Đất nước Việt Nam chỉ mới thống nhứt từ năm 1975 đến nay. Từ 1954 đến 1975 ta có hai nước Việt Nam: VNDCCH và VNCH. Từ 1874 đến 1954, Việt Nam là thuộc địa của Pháp. Hiệp ước Thiên tân 1885, Thanh triều “giao” Việt Nam cho Pháp. Tức Việt Nam đã từng là “thuộc quốc” của Trung Hoa. Điều cần nhấn mạnh, Nam kỳ là nhượng địa vĩnh viễn cho Pháp. Xa hơn nữa, nhưng chỉ vài trăm năm, ta cũng có hai nước Việt Nam thời Trịnh-Nguyễn phân tranh. Miền trung trước đó là nước Chiêm Thành. Đất miền Nam thuộc Chân Lạp. Lãnh thổ Việt Nam chỉ quanh quẩn ở châu thổ sông Hồng.

Việt Nam im lặng khi Nga ủng hộ nền độc lập của hai cộng hòa ly khai Donetsk và Luhansk. Việt Nam mặc nhiên nhìn nhận hiệu lực “quyền dân tộc tự quyết” cao hơn nguyên tắc “toàn vẹn lãnh thổ” trong nội bộ của một quốc gia độc lập có chủ quyền (Có nghĩa là biên giới bất khả xâm phạm và lãnh thổ bất khả phân chia). Trong khi luật pháp và tập quán quốc tế “im lặng” (không phân biệt cao thấp) về hai quyền này.

Việt Nam có thể bị hệ quả “gậy ông đập lưng ông”.

Hiệp định Paris 1973 điều 1 qui định nước Việt Nam độc lập có chủ quyền và thống nhứt ba miền Bắc, Trung, Nam. Nhưng điều 9 lại qui định “dân tộc miền Nam giữ quyền dân tộc tự quyết”.

Quyền dân tộc tự quyết của một dân tộc không bị mất theo thời gian. Dân tộc đó còn hiện hữu thì quyền đó còn gắn liền với dân tộc đó. Dân miền Nam, một ngày nào đó, có thể vịn quyền “dân tộc tự quyết” để đòi độc lập, với lãnh thổ từ nam vĩ tuyến 17.

Dân “Nam kỳ” (thuộc Pháp cũ, tức miệt lục tỉnh), cũng có thể nại “quyền dân tộc tự quyết” để ly khai. Nam kỳ đã từng có tên là Nam kỳ quốc, có quốc ca, quốc kỳ… riêng biệt.

Việt Nam im lặng về hành vi một quốc gia sử dụng vũ lực xâm lược một quốc gia độc lập có chủ quyền. Việt Nam im lặng trước việc Putin nại cớ bảo vệ hai cộng hòa độc lập Luhansk và Donetsk để xua quân vào đánh Ukraine.

Một cường quốc nào đó, thí dụ Nam Mông cổ (?) hay Đông Thái Bình Dương (?), vì quyền lợi địa chính trị, có thể nại cớ bảo vệ “cộng hòa ly khai” ở miền Nam để đem quân vào Việt Nam. Điều này nếu xảy ra, các đại cường (Mỹ, Trung, Nga, Anh, Pháp…), những quốc gia “bảo kê” Hiệp định Paris 1973, có thể sẽ đứng về phía Cộng hòa Miền Nam. Ngay cả Đại hội đồng LHQ cũng vậy. Hồ sơ Hiệp định Paris 1973 vẫn còn lưu trữ tại cơ quan quốc tế này.

Ngay cả khi Trung cộng sử dụng vũ lực đánh chiếm các đảo Trường Sa của Việt Nam để để “thống nhứt đất nước”, Việt Nam cũng khó có thể mở miệng yêu cầu giúp đỡ từ LHQ hay từ các đại cường. Công hàm Phạm Văn Đồng 1958, Việt Nam nhìn nhận (mặc nhiên) chủ quyền của TC ở Hoàng Sa và Trường Sa.

Chuyện “Tứ sa” vì vậy trở thành chuyện “nội bộ” của Trung cộng.

Các dân tộc Tây nguyên, Tây Bắc… đều có thể ly khai, đòi độc lập, như dân Crimée, Luhansk, Donetsk… một khi Việt Nam suy yếu.

Rõ ràng, hành vi bỏ phiếu trắng của CSVN không hề đem lại lợi ích nào cho Việt Nam. Ngược lại, đảng CSVN tạo những tiền lệ nguy hiểm không chỉ cho an ninh quốc gia mà còn đe dọa sự toàn vẹn lãnh thổ.

Tại sao Việt Nam lại có lựa chọn “nguy hiểm” như vậy?

Thứ nhứt, câu trả lời có thể rất đơn giản, là Việt Nam, một cách có ý thức, chỉ làm theo Trung cộng. Trung cộng làm cái gì, Việt Nam làm cái nấy. Thời ông Hồ đã vậy, bây giờ càng hơn vậy, nhứt là sau khi Việt Nam “cầu hòa” với tư thế thất bại trước Trung cộng năm 1991.

Thời ông Trọng, sự lệ thuộc càng thêm lộ liễu.

Thực tế cho thấy Việt Nam đã mất độc lập về ngoại giao, ở bất cứ sự kiện quốc tế nào có liên quan đến Trung cộng. CSVN biện hộ việc này bằng cách nại ra “sách lược ngoại giao cây tre”.

Nói tới cây tre, ta liên tưởng đến tính mềm dẻo, chịu đựng được giông bão mà không gãy đổ như cổ thụ.

Công việc “ngoại giao” trong một “quốc gia bình thường” là những công việc chỉ có mục đích bảo vệ uy tín, cũng như quyền và lợi ích của quốc gia trước trường quốc tế. Tức là mọi sách lược ngoại giao của một quốc gia đều xuất phát từ lợi ích của quốc gia dân tộc.

Như trên đã viết, Việt Nam bị đe dọa an ninh quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ khi ba lần (theo TC) bỏ phiếu trắng.

Sách lược quốc phòng “bốn không” của Việt Nam càng cho ta thấy Việt Nam đã mất độc lập về TC như thế nào.

Nội dung chính sách quốc phòng bốn không của Việt Nam: “Việt Nam chủ trương không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế“.

Nội dung 4 không về quốc phòng ta thấy CSVN đã từ bỏ chủ quyền về quốc phòng của Việt Nam.

Gia nhập liên minh quân sự để tự vệ là quyền chính đáng của mọi quốc gia. Quyền tự vệ (đơn phương hay đa phương) là chủ quyền của quốc gia và quyền này được ghi trong Hiến chương LHQ.

Một quốc gia cho phép một quốc gia đồng minh đặt căn cứ quân sự trên đất nước mình, với mục tiêu phòng thủ, là một lựa chọn chiến lược của một quốc gia độc lập, có chủ quyền. Nam Hàn, Nhật, Ý, Đức và nhiều quốc gia khác cho phép Mỹ đặt căn cứ quân sự trên đất nước của họ, vì lý do bảo vệ đất nước trước sự đe dọa của các đại cường khác.

Trên thế giới này chỉ có các quốc gia trung lập như Thụy sĩ, Phần lan, Áo… mới có chủ trương không liên minh quân sự và cũng không cho phép nước ngoài đặt căn cứ quân sự trên lãnh thổ của nước mình. Ngoài ra có Nhật, bị hạn chế quốc phòng (ở nhiều mặt như không được lập bộ quốc phòng, không được tham gia chiến tranh ở nước ngoài, ngân sách quốc phòng không quá 1% GDP…) vì Nhật là quốc gia bại trận, quốc phòng bị hạn chế do áp đặt của Mỹ và các quốc gia thắng trận (Thế chiến II). Nhưng Nhật vẫn giữ quyền liên minh quân sự với các quốc gia đồng minh khác. Bởi vì đó là một quyền chính đáng của một quốc gia độc lập.

Không tuyên bố “trung lập”, vậy tại sao Việt Nam từ bỏ chủ quyền về quốc phòng?

Tuyên bố trung lập, kiểu Phần Lan, Việt Nam có quyền nâng cao quan hệ của Mỹ (Anh, Pháp v.v..) lên hàng “đối tác chiến lược toàn diện” để quân bình với TC và Nga.

Câu trả lời, Việt Nam làm vậy vì TC có lợi.

Thứ hai, theo ý kiến nhiều học giả quốc tế, Việt Nam bỏ phiếu trắng vì Việt Nam có truyền thống theo Nga. Chiến tranh 54-75 nhờ các viện trợ của Liên Xô (nay là Nga) và Trung cộng mà quân miền Bắc thắng Mỹ và quân miền Nam.

Nếu đúng vậy thì CSVN vì “ơn nghĩa” với Nga mà bỏ phiếu như vậy.

Vấn đề là đối với nhân dân Việt Nam thì chưa chắc. Dân VNCH cũ càng không mấy ai “mang ơn” Nga và TC.

Lý do khác, Việt Nam lệ thuộc vào nguồn vũ khí của Nga. Bắt buộc Việt Nam phải ủng hộ Nga để có sự liên tục trong nguồn cung cấp khí tài.

Vấn đề là Nga cũng là nguồn cung cấp vũ khí cho TC. Ngoài ra, Nga và Trung cộng có chung đối thủ là Mỹ. Tức là TC và Nga chia sẻ một quan ngại về chiến lược.

Một sự xung đột nếu có xảy ra giữa Trung cộng và Việt Nam, xác suất rất nhỏ để Nga ủng hộ Việt Nam.

Suy nghĩ cách nào thì việc “chọn bên” của Việt Nam cho thấy là Việt Nam chọn phe “thất bại”. Việc này chỉ đem lại thiệt hại cho quyền và lợi ích của quốc gia và dân tộc.

Vấn đề là Việt Nam đã từng đứng về phe “thất bại”.

Cuộc xâm lược Ukraine của Nga hiện nay cho ta thấy viễn ảnh một “cuộc chiến tranh lạnh” mới sắp thành hình. Ngay cả khi Nga rút quân, không có gì cho thấy các biện pháp “trừng phạt” của Mỹ và EU lên Nga sẽ được dỡ bỏ. Cũng không có gì ngăn cản ta nghĩ đến việc Mỹ và đồng minh Tây Âu, cùng các quốc gia dân chủ tự do Đông Á… sẽ đặt một “bức màn sắt” mới, bao vây cả TC, Nga và các xứ độc tài.

Cuộc “cách mạng dân chủ” kỳ này do Mỹ cầm đầu, được các quốc gia dân chủ tự do ủng hộ. Sẽ không có trận “sống mái” nào giữa bên dân chủ với bên độc tài. Huyết mạch kinh tế bị tắc nghẽn khiến Nga (và TC) kiệt quệ và “quốc gia” Nga có nguy cơ “giải thể”.

Việt Nam sẽ ra sao nếu lần nữa đứng về “phe thua cuộc”?

Đứng về phe thua cuộc trong chiến tranh lạnh, Việt Nam mất thời gian 50 năm, đất nước trở thành bãi chiến trường với khoảng 4 triệu dân Việt Nam chết thảm. Đất nước bị bom đạn tàn phá. Lòng người dân sau ½ thế kỷ vẫn còn bất an.

Trung cộng sớm thức thời, từ 1979 đã bắt tay với Mỹ, nhờ vào tư bản và khoa học kỹ thuật của Mỹ để phát triển đất nước. Việt Nam đến bây giờ vẫn còn quan niệm xem Mỹ là “kẻ thù chiến lược” và thành phần người Việt di tản ra nước ngoài năm 1975 là “kẻ thù tiềm tàng”.

Việt Nam không hề có cái gọi là “ngoại giao cây tre” mà chỉ có “ngoại giao tầm gởi”.

Tiếp tục chính sách ngoại giao tầm gởi, nếu lần nữa nếu đứng về phe thất bại, quốc gia Việt Nam có nguy cơ phân hủy (thành nhiều nước).

Việt Nam cần phải có một sách lược đối ngoại khôn ngoan, có bên tả, bên hữu, bên trung dung để bảo vệ đất nước hữu hiệu và việc phát triển được bền vững.

Bài học từ nước láng giềng Thái Lan, thời Thế chiến thứ II. Nước này ký hiệp ước liên minh với Nhật từ năm 1934, đứng trong khối Đại Đông á. Đến các năm 1943, 1944… nhận thấy Nhật sẽ thua trong chiến tranh, vị thủ tướng thân Nhật từ chức để một thủ tướng thân Mỹ lên nắm chính phủ. Rốt cục trong Thế chiến thứ II Thái Lan đứng về “phe chiến thắng”.

Ngay cả nước Ý, vốn là đồng minh với Nhật trong phe Trục (Đức-Nhật-Ý), những ngày cuối chiến tranh cũng “tuyên bố chiến tranh” với Nhật để được đứng về phe “chiến thắng”. Họ làm vậy vì không muốn bị “xử” như Nhật và Đức. Hai nước Đức và Nhật phải bồi thường chiến tranh và lãnh thổ bị mất cho các quốc gia khác. Chủ quyền hai quốc gia này cũng bị hạn chế do sự áp đặt của phe chiến thắng.

Ông Trọng nhiều lần nói rằng, mục tiêu duy nhứt của đảng là phụng sự cho lợi ích của đất nước và dân tộc. Nếu thật sự ông Trọng có niềm tin như vậy thì ông Trọng phải phế bỏ chính sách “ngoại giao cây tre” mà thực chất là ngoại giao tầm gởi, chỉ có hại cho đất nước và dân tộc Việt Nam. Thay vào đó, một cuộc cải tổ chính trị vĩ đại và toàn diện. Áp dụng thể chế chính trị tự do, dân chủ, đa nguyên, đa đảng. Từ đó môi trường chính trị của Việt Nam mới có đủ các thành phần tả, hữu, trung dung. Có như vậy Việt Nam mới có thể “trở tay” kịp thời, và đúng lúc, để “đứng về phe chiến thắng”.

 

Trương Nhân Tuấn (13.01.2023)