Biển Đông: Phi Luật Tân – Việt Nam hợp tác để có một Bộ Quy tắc COC “thực chất”

Ngoại trưởng Trung cộngTần Cương (trái) tiếp kiến tổng thống Phi Luật Tân Ferdinand Marcos Jr. tại Manila ngày 22/04/2023. AP

Phi Luật Tân và Việt Nam ‘‘lo ngại sâu sắc về các hoạt động đơn phương làm suy yếu hòa bình và ổn định trong khu vực’’. Hai nước cam kết tăng cường hợp tác để khối ASEAN và Trung cộngđúc kết được một Bộ Quy tắc Ứng xử ở Biển Đông (gọi tắt là COC) có ‘‘thực chất’’.

Trên đây là tuyên bố của bộ Ngoại Giao Phi Luật Tân, được báo chí quốc gia Đông Nam Á này loan tải hôm qua, 17/05/2023 sau khi nhóm công tác thường trực chung Phi Luật Tân – Việt Nam về các vấn đề hàng hải và đại dương họp hai ngày, 15-16/05, tại Hạ Long, Việt Nam. Đúc kết được một Bộ Quy tắc Ứng xử ở Biển Đông có ‘‘thực chất’’ là mục tiêu mà Việt Nam và Phi Luật Tân khẳng định, sau cuộc họp hai ngày. Cuộc họp song phương Việt Nam – Phi Luật Tân diễn ra trước phiên họp lần thứ 20 giữa ASEAN và Trung cộngvề Biển Đông, cũng được tổ chức tại thành phố Hạ Long.

Theo giới quan sát, một Bộ Quy tắc Ứng xử có ‘‘thực chất’’, mang tính ràng buộc pháp lý, cho phép ngăn ngừa xung đột bùng phát ở Biển Đông. Trong cuộc họp hai ngày nói trên, cả Việt Nam và Phi Luật Tân đều không nêu trực tiếp tên Trung cộng, nhưng yêu sách ‘‘đường chín đoạn’’ của Trung cộngchồng lấn với các vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam và Phi Luật Tân là mối lo ngại chính của hai láng giềng ASEAN, theo báo Philippine Star. Cả hai quốc gia đều phải đối mặt với việc ‘‘tàu Trung cộngngăn chặn hoặc quấy rối ngư dân trong các vùng biển của mình’’.

Về phía Bắc Kinh, báo South China Morning Post dẫn lại thông báo của bộ Ngoại Giao Trung cộnghôm 17/05, theo đó tại cuộc họp ở Hạ Long hôm qua.Trung cộngvà ASEAN đạt được thỏa thuận tăng tốc ‘‘các tham vấn và chốt lại lần thứ hai văn bản đàm phán về COC (second reading of the text) ngay trong năm nay’’.

Vẫn liên quan đến Bộ Quy tắc Ứng xử ở Biển Đông, theo báo Philippine Star, ngoại trưởng Úc Penny Won trả lời phỏng vấn trên truyền hình đã kêu gọi ASEAN “không nên chấp nhận bất cứ điều khoản nào có hại cho các quyền của mình.” Canberra nhấn mạnh Biển Đông không chỉ liên quan riêng đến khối ASEAN và Trung cộng, bởi đây cũng là nơi các tuyến đường thương mại hàng hải quốc tế quan trọng đi qua.

RFI (18.05.2023)

 

 

Tàu khảo sát Xiang Yang Hong 10 quay lại EEZ của Việt Nam

Tàu Xiang Yang Hong-10 đã xâm nhập trở lại vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam, hiện hoạt cách đường cơ sở Việt Nam khoảng 150 hải lý. Marine Traffic / RFA

 

Theo dữ liệu RFA ghi nhận từ Marine Traffic, tàu khảo sát Trung cộngXiang Yang Hong-10 của Trung cộnghôm 17/5/2023, bắt đầu quay trở lại vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam. Hiện nay, nó lặp lại chính xác đường khảo sát đã thực hiện hôm 10/5. 

Đợt khảo sát mới nhất của tàu này trong vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam bắt đầu từ hôm 7/5/2023. Hôm 15/5, con tàu này rời vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam, đi về khu vực đá Chữ Thập; nhưng rồi trở lại. 

Ông Raymond Powell, nhà nghiên cứu các vấn đề Biển Đông tại Đại học Stanford, trả lời RFA về loại dữ liệu mà tàu Xiang Yang Hong-10 có thể quan tâm khi nó lặp lại chính xác hành trình đã khảo sát cách đó một tuần. 

“Dựa theo bản đồ cáp ngầm 2023, điều mà tôi nghĩ đến là cáp ngầm dưới biển, nhưng điều đó chỉ thực sự giải thích tuyến đường khảo sát từ đông bắc đến tây nam của con tàu này. 

Bên cạnh đó, tại sao Trung cộnglại cần một đội hộ tống lớn như vậy cho một cuộc khảo sát cáp ngầm dưới biển? Đơn giản là điều đó truyền đạt một thông điệp tới Chính phủ Việt Nam, rằng nó sẽ là một hoạt động hoàn toàn bình thường. Tôi có cảm giác họ muốn gửi thông điệp là họ mới là người sở hữu các mỏ khí trong vùng biển mà Việt Nam đang thăm dò, mặc dù thực tế là họ đã giảm quy mô của đoàn tàu hộ tống, cho thấy có thể họ muốn giảm bớt thông điệp một chút.”

Từ Việt Nam, một nhà quan sát vấn đề Biển Đông không tiện nêu tên phân tích với RFA:

“Trong đợt đầu tiên xâm nhập, những ngày vừa qua, phía Trung cộngcử 2 tàu hải cảnh CCG 5305 và CCG 4303 hộ tống tàu khảo sát Xiang Yang Hong-10, chưa kể một số tàu dân binh. Còn Việt Nam điều 2 tàu kiểm ngư Kiem Ngu 468 và Kiem Ngu 465 đến giám sát. Kế đó tàu cảnh sát biển CSB 7011 cũng có mặt tham gia. 

Tuy nhiên, đến hôm 17/5, sau khi tàu Trung cộngvòng từ khu vực Chữ Thập trở lại thì phía họ chỉ còn thấy một tàu là CCG 5305 đi theo hộ tống cùng với một số tàu dân binh. Tất nhiên, điều này chỉ dựa trên tín hiệu AIS, còn hiện trường có thể khác. Tàu CCG 4303 của Trung cộngđã đi lên phía bắc trở về Tam Á. Đến buổi trưa thì tàu CSB 7011 của Việt Nam cũng đổi hướng về bờ. Tức là hiện nay phía Trung cộngchỉ còn tàu 5305 hộ tống còn phía Việt Nam còn hai tàu kiểm ngư giám sát hoạt động của họ. So với đợt trước thì số lượng tàu công vụ của hai bên đã giảm xuống.

Số lượng tàu bớt đi thì nguy cơ xảy ra sự cố đối đầu cũng sẽ giảm đi. Trong đợt khảo sát đầu tiên, có lẽ cả hai phía đều không biết ý định và phản ứng tiềm tàng của đối phương là gì, cho nên sẽ cẩn trọng và điều nhiều lực lượng. Nhưng sau một vòng khảo sát của phía Trung cộngthì có lẽ phía Việt Nam đánh giá có vẻ tình hình không quá nghiêm trọng, còn Trung cộngthấy Việt Nam cũng không manh động. Có thể phán đoán đó là lý do cả hai bên rút bớt lực lượng, Trung cộngrút bớt tàu hải cảnh, còn Việt Nam rút bớt tàu cảnh sát biển. Như vậy, sự việc có vẻ được giảm căng thẳng.” 

Duân Đặng, nhà báo độc lập chuyên theo dõi vấn đề Biển Đông, nhận xét trên Twitter về hoạt động mới này của Xiang Yang Hong: 

“Tàu Hướng Dương Hồng 10 đang đi đúng quỹ đạo mà nó đã đi vào ngày 10 tháng 5 khi tiếp cận các giàn khoan dầu của Việt Nam ở Biển Đông. Có thể dự đoán nó sẽ thực hiện một cách tiếp cận mới vào ngày mai. Trong khi đó, việc tàu CCG 4303 của Trung cộngvà CSB 7011 của Việt Nam rời khỏi hiện trường cho thấy khả năng giảm căng thẳng.”

RFA (18.05.2023)

 

 

Hoa Kỳ và Phi Luật Tân liên minh chống lại Trung cộng

Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đe dọa sẽ kích hoạt hiệp ước phòng thủ sau các hành động khiêu khích của Hải cảnh Trung cộng

Trung sĩ Hạng 3 của Lực lượng Tuần duyên Phi Luật Tân John Solatre sử dụng đài phát thanh trên tàu BRP Malabrigo để gửi thông điệp tới các phương tiện tình nghi là tàu dân quân Trung cộnggần đảo Thị Tứ do Phi Luật Tân tuyên bố chủ quyền, được người dân địa phương gọi là đảo Pag-asa, ở Biển Đông vào ngày 21/04/2023. (Ảnh: Aaron Favila/AP Photo)

 

Khi căng thẳng leo thang giữa Trung cộngvà Phi Luật Tân về các đảo và chủ quyền ở Biển Đông, chính phủ Tổng thống Biden đã vạch rõ ra một ranh giới.

Phản hồi về các cuộc đối đầu giữa các tàu Hải cảnh Trung cộngvà Phi Luật Tân trong vùng đặc quyền kinh tế của Phi Luật Tân (EEZ), một phát ngôn viên của Bộ Ngoại giao cho biết hôm 29/04 rằng bất kỳ việc khai hỏa nào vào các tàu Tuần duyên Phi Luật Tân sẽ kích hoạt một hiệp ước phòng thủ.

Tuyên bố của phát ngôn viên này cho biết, “Hoa Kỳ sát cánh với đồng minh Phi Luật Tân trong việc duy trì trật tự hàng hải quốc tế dựa trên luật lệ và tái khẳng định rằng một cuộc tấn công vũ trang ở Thái Bình Dương, bao gồm cả ở Biển Đông, nhắm vào các lực lượng vũ trang, tàu công vụ, hoặc phi cơ của Phi Luật Tân, bao gồm cả tàu và phi cơ của Lực lượng Tuần duyên, sẽ kích hoạt các cam kết phòng thủ chung của Hoa Kỳ theo Điều IV của Hiệp ước Phòng thủ Chung năm 1951 giữa Hoa Kỳ và Phi Luật Tân.”

Các cuộc tấn công như vậy được cho là đã xảy ra nhiều lần. Hồi tháng Hai, Phi Luật Tân đã công bố video bằng chứng về việc tàu Hải cảnh Trung cộngbắn tia laser cấp độ quân sự vào Lực lượng Tuần duyên Phi Luật Tân. Kể từ năm 1995, Trung cộngđã chiếm đóng lãnh thổ của Phi Luật Tân tại Đá Vành Khăn (Mischief Reef) ở Biển Đông, chưa kể nhiều đảo nhân tạo khác nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Phi Luật Tân.

Điều IV của hiệp ước bảo vệ chung này quy định: “Mỗi Bên thừa nhận rằng một cuộc tấn công vũ trang ở Khu vực Thái Bình Dương nhắm vào bất kỳ một bên nào trong các bên sẽ gây nguy hiểm cho hòa bình và an toàn của chính mình và tuyên bố rằng họ sẽ hành động để đối phó với những nguy cơ chung theo quy trình hiến pháp của mình. Bất kỳ cuộc tấn công vũ trang nào như vậy cùng tất cả các biện pháp được thực hiện do hậu quả của cuộc tấn công đó sẽ được báo cáo ngay lập tức cho Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Những biện pháp đó sẽ chấm dứt khi Hội đồng Bảo an đã thực hiện các biện pháp cần thiết để khôi phục và duy trì hòa bình và an ninh quốc tế.”

Do đó, các lực lượng quân sự của Hoa Kỳ có thể được huy động để bảo vệ các tàu tuần duyên của Phi Luật Tân khỏi các tàu của hải cảnh, hải quân, hoặc dân quân biển Trung cộng, tất cả đều nằm dưới sự chỉ huy của Hải quân Quân Giải phóng Nhân dân (PLA).

Vì Trung cộngvà Nga có khả năng sẽ phủ quyết bất kỳ hành động nào của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc nhằm bảo vệ Phi Luật Tân, do đó còn chưa rõ liệu Hoa Kỳ và một liên minh gồm các quốc gia sẵn sàng — với Vương quốc Anh, Nhật Bản, và Úc là những bên tham gia tiềm năng — có bảo vệ Phi Luật Tân trước hành động gây hấn đang diễn ra của PLA hay không.

Một tàu Hải cảnh Trung cộngmang số hiệu 5201 chặn tàu Tuần duyên Phi Luật Tân BRP Malapascua khi tàu Phi Luật Tân di chuyển vào cửa Bãi Cỏ Mây (Second Thomas Shoal), địa phương gọi là Bãi cạn Ayungin, tại Biển Đông, hôm 23/04/2023. (Ảnh: Aaron Favila/AP Photo)

 

Việc đề cập đến hiệp ước phòng thủ trong phát ngôn của Bộ Ngoại giao Mỹ là một sự leo thang đáng chú ý trong vấn đề Biển Đông mà ít hãng truyền thông đưa tin đầy đủ, và một điều nữa là tân tổng thống Phi Luật Tân, ông “Bongbong” Ferdinand Marcos, Jr., sẽ có nhiều mối quan hệ quốc phòng chặt chẽ hơn với Hoa Kỳ so với người tiền nhiệm khó tính của ông, ông Rodrigo Duterte.

Người tiền nhiệm, ông Rodrigo Duterte, nổi tiếng là đã phá vỡ mối bang giao với Hoa Kỳ để chuyển hướng Phi Luật Tân về phía Trung cộngvà xin khoản vay phát triển trị giá 180 tỷ USD. Tuy nhiên, chỉ có 422 triệu USD được thông qua, điều này khiến các nhà ủng hộ Trung cộngcủa nước này thất vọng và có khả năng khiến cử tri Phi Luật Tân mất niềm tin về bất kỳ hy vọng nào về việc Trung cộngđối xử hữu hảo với Phi Luật Tân.

Ông Marcos đã tăng cường độ các cuộc tập trận quân sự chung với Hoa Kỳ. Hôm 28/04, 18,000 quân của Hoa Kỳ và Phi Luật Tân đã hoàn thành cuộc tập trận quân sự kéo dài ba tuần, đây là cuộc tập trận lớn nhất từ ​​trước đến nay giữa các đồng minh này.

Trước đó cũng trong tháng Tư (2023), Hoa Kỳ và Phi Luật Tân đã công bố bốn địa điểm quân sự mới của Mỹ ở Phi Luật Tân, bao gồm trên đảo Palawan, tiếp giáp với Biển Đông và hai địa điểm ở miền bắc Phi Luật Tân gần Đài Loan. Hai địa điểm phía bắc sẽ cung cấp hỗ trợ hải quân và không quân cho các lực lượng luân phiên của Hoa Kỳ, điều này sẽ giúp ngăn chặn một cuộc xâm lược Đài Loan của Trung cộng.

Một chiếc V-22 Osprey cất cánh từ hàng không mẫu hạm USS Wasp trong khuôn khổ cuộc tập trận quân sự chung thường niên giữa Hoa Kỳ và Phi Luật Tân trên bờ biển San Antonio, hướng ra Biển Đông, thuộc tỉnh Zambales, Phi Luật Tân, vào ngày 11/04/2019. (Ảnh: Ted Aljibe/AFP qua Getty Images)

 

Địa điểm thứ tư nằm ở trung tâm Luzon, phía bắc Manila, có thể hỗ trợ cho hai địa điểm phía bắc và giúp tái khởi động chiến dịch của ông Marcos nhằm đối phó với quân du kích cộng sản địa phương đã tiến hành cuộc chiến kéo dài 50 năm chống lại Manila.

Việc Đảng Cộng sản Trung cộngthất hứa, xâm lược lãnh thổ đối với hầu hết các nước láng giềng và tuyên bố bá chủ khu vực ở châu Á đang gây ra một cuộc chạy đua vũ trang không chỉ giữa Hoa Kỳ và Trung cộng, mà còn giữa các nước láng giềng của Trung cộng, những nước đang cố gắng ngăn chặn Trung cộngcó hành động xâm phạm lãnh thổ thêm nữa thông qua hợp tác quốc phòng chặt chẽ hơn. Nhật Bản, Ấn Độ, Bhutan, Việt Nam, Indonesia, Malaysia, Brunei, và Đài Loan cũng có tranh chấp lãnh thổ với Trung cộng.

 

Tham vọng của ĐCSTQ trong việc xem mình như một bá chủ khu vực bằng cách loại bỏ các siêu cường khác ra khỏi châu Á đã được thể hiện trong phản ứng của nhà cầm quyền này đối với thông cáo của Bộ Ngoại giao Mỹ.

Hôm 30/04, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung cộngđã đưa ra một tuyên bố bằng văn bản nói rằng: “Là một quốc gia bên ngoài khu vực, Hoa Kỳ không được can thiệp vào vấn đề Biển Đông hoặc sử dụng vấn đề Biển Đông để gây bất hòa giữa các quốc gia trong khu vực.”

 

Bắc Kinh và Moscow đang cố gắng khẳng định rằng họ có phạm vi ảnh hưởng — giống như phạm vi ảnh hưởng mà Hoa Kỳ đã từng có trong thế kỷ 19 đối với khu vực Mỹ Latinh — để ngăn cản sự tham gia của Hoa Kỳ và Liên minh Âu Châu ở châu Á hoặc các nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ. Một số quan chức và nhà phân tích của họ thậm chí sẽ tuyên bố rằng các quốc gia trong các khu vực này thiếu chủ quyền khi quyền lực khu vực tập trung ở Bắc Kinh và Moscow.

 

Nhưng các quốc gia trong các khu vực này lại nghĩ khác, và họ được luật pháp quốc tế cũng như sức mạnh quân sự và kinh tế của Hoa Kỳ, Liên minh Âu Châu, và các đồng minh như Nhật Bản và Nam Hàn ủng hộ. Chừng nào Bắc Kinh và Moscow không hối lộ để giành chiến thắng, các nền dân chủ trên thế giới có thể và phải chống lại nỗ lực của họ để giành quyền bá chủ khu vực, vốn có thể biến thành chiến tranh giành quyền bá chủ toàn cầu tại một thời điểm nào đó trong tương lai.

 

Một nền hòa bình lâu dài chỉ có thể đạt được khi Moscow và Bắc Kinh dân chủ hóa và do đó trở thành một phần của những người ủng hộ hòa bình, dân chủ, và nhân quyền trên toàn cầu thay vì là những kẻ chống lại chính các giá trị này.

Anders Corr

The Epoch Times (17.05.2023)

 

 

Tàu Việt Nam, Trung cộngđối đầu ở Biển Đông; Phi Luật Tân thả phao đánh dấu lãnh thổ

Tàu hải cảnh Trung cộng(trên) và tàu Cảnh sát biển Việt Nam trong vụ đụng độ vào tháng 5 năm 2014 khi Trung cộngkéo giàn khoan Hải Dương 981 vào khu vực gần quần đảo Hoàng Sa, nơi cả hai nước đều tuyên bố chủ quyền.

 

Báo South China Morning Post (SCMP) dẫn các nguồn tin trên mạng xã hội hôm 14/5 cho rằng cuộc đối đầu mới nhất giữa các tàu Việt Nam và Trung cộngtrong khu vực tranh chấp trên Biển Đông là do Hà Nội cố gắng mở rộng hoạt động khoan dầu trong khu vực.

Ngược lại, Dự án Đại sự ký Biển Đông hôm 15/5 kêu gọi mọi người “hãy thận trọng đừng để sập bẫy chiến tranh thông tin của Trung cộng”.

Nhà chức trách Việt Nam chưa đưa ra quan điểm chính thức về vấn đề nêu trên, theo quan sát của VOA.

Tài khoản mạng xã hội Trung cộngSouth China Sea Wave, một tài khoản chuyên về các báo cáo quân sự và nghiên cứu về khu vực, trong một bài đăng trên WeChat hôm 14/5 nói có hơn chục tàu đã tham gia vào vụ chạm trán, được cho là bắt nguồn từ một thông báo nội bộ trong chính quyền Việt Nam rằng sẽ mở rộng chương trình khoan tại Lô 05-1A gần Bãi Tư Chính trong tháng này.

Tài khoản này nói rằng chương trình mở rộng (nếu có) sẽ vi phạm Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông.

Tuyên bố mà Trung cộngvà các thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á đã ký năm 2002 khẳng định quyền tự do hàng hải và hàng không, giải quyết hòa bình các tranh chấp và kêu gọi các bên tự kiềm chế.

Cho tới nay, cả hai nước đều chưa xác nhận các cuộc chạm trán. Điều này cho thấy cả hai bên đang cố gắng tránh leo thang hơn nữa, theo nhận định của SCMP.

Tài khoản South China Sea Wave cho biết thông báo của Việt Nam đã khiến Bắc Kinh triển khai tàu nghiên cứu Xiang Yang Hong (Hướng Dương Hồng) 10 đến khu vực, được hộ tống bởi 2 tàu hải cảnh Trung cộngvà ít nhất 7 tàu đánh cá từ các tỉnh Quảng Đông và Hải Nam của nước này. Việt Nam phản ứng bằng cách triển khai 7 tàu.

Bãi Tư Chính do Hà Nội kiểm soát, thuộc quần đảo Trường Sa, nằm trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Đây là nơi diễn ra cuộc đối đầu trước đó giữa hai bên vào năm 2019. Tuy nhiên, khu vực này cũng nằm trong “đường chín đoạn” mà Bắc Kinh tuyên bố chủ quyền.

Nhà báo tự do Đặng Sơn Duân chuyên đưa tin về các vấn đề Biển Đông viết trên Twitter dẫn nguồn tin từ các nhà chức trách Việt Nam cho biết chiến dịch khoan mở rộng tại Lô 05-1A bắt đầu vào tháng 5 này, và đội tàu Trung cộngđã tiếp cận giếng dầu DGN-4X vào ngày 10/5 sau khi một giàn khoan được kéo tới đó.

“Hành động khiêu khích này dường như nhằm gây sức ép buộc Việt Nam dừng chiến dịch khoan mới ở Lô 05-1A”, nhà báo người Việt viết.

Trên internet xuất hiện các ảnh chụp màn hình của hệ thống nhận dạng tự động hàng hải, theo dõi các tàu thuyền, cho thấy các tàu nối đuôi nhau và cố gắng cắt nhau trong khi vẫn giữ khoảng cách an toàn. VOA không thể kiểm chứng các hình ảnh này.

Ray Powell, người đứng đầu Dự án Myoushu, một sáng kiến của Đại học Stanford nghiên cứu chiến lược của Trung cộngở Biển Đông, cho biết các tàu Trung cộngđã di chuyển về phía đông qua mỏ dầu của Việt Nam, với một tàu cảnh sát biển cố gắng “hai lần đột ngột cắt ngang” một tàu cảnh sát biển Việt Nam.

Hôm 15/5, nhóm có tôn chỉ “cung cấp tư liệu và một bức tranh tổng thể về diễn tiến tranh chấp Biển Đông” mang tên Dự án Đại sự ký Biển Đông đăng thông điệp trên Facebook nói rằng kế hoạch thăm dò mở rộng lô 05-1A cũng như kế hoạch phát triển mỏ Đại Hùng “không phải là thông tin gì nội bộ mới gần đây” như tờ báo có trụ sở ở Hong Kong đưa tin và gây ấn tượng Việt Nam làm điều gì đó lén lút.

“Đây đã là thông tin được đăng tải công khai và được biết đến rộng rãi từ năm ngoái”, theo Dự án Đại sự ký Biển Đông.

Nhóm này cho rằng “hoạt động dầu khí bình thường của Việt Nam ở mỏ Đại Hùng, nếu có chút vai trò nào, thì chỉ đóng vai trò như một cái cớ cho Trung cộngtriển khai hoạt động khảo sát trên vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam”.

Vẫn Dự án Đại sự ký Biển Đông chỉ ra rằng đây cũng không phải lần đầu tiên những tờ báo dẫn nguồn từ Trung cộng“đưa những thông tin có xu hướng làm nhẹ tính nghiêm trọng của việc tàu Trung cộngxâm phạm vùng đặc quyền kinh tế của các nước khác hay đổ lỗi cho phía Việt Nam là bên kích động”.

Giữa lúc Việt Nam và Trung cộngcó căng thẳng mới, Lực lượng bảo vệ bờ biển Phi Luật Tân (PCG) đã đặt 5 chiếc phao mang quốc kỳ của họ trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của nước này nhằm “nêu bật quyết tâm kiên định của Phi Luật Tân trong việc bảo vệ biên giới và tài nguyên trên biển của mình, đồng thời góp phần đảm bảo an toàn cho thương mại hàng hải”, AFP dẫn lời Phó Đề đốc Jay Tarriela, phát ngôn viên của Lực lượng Tuần duyên và cố vấn về an ninh hàng hải Phi Luật Tân, cho biết trên Twitter.

Các nhà chức trách Phi Luật Tân đã cố định các phao này từ ngày 10-12/5 tại 5 địa điểm trong khu vực 200 dặm, bao gồm Đá Ba Đầu, nơi hàng trăm tàu hải cảnh Trung cộngđược phát hiện vào năm 2021.

Trong một cuộc phỏng vấn với hãng tin GMA News của Phi Luật Tân, Phó Đô đốc Lực lượng Tuần duyên Phi Luật Tân, Joseph Coyme, cho biết Phi Luật Tân sẽ trình kháng thư nếu quốc gia nước ngoài nào cố gắng phá bỏ bất kỳ chiếc nào trong số những phao của họ.

Ông Coyme cho biết thêm họ sẽ lắp đặt 6 phao nữa trong năm nay để liên tục khẳng định chủ quyền của mình.

Phi Luật Tân trước đó đã lắp đặt các phao tại 4 hòn đảo của họ ở Biển Đông vào năm ngoái, bao gồm: Lawak (Vĩnh Viễn), Likas (Bến Lạc), Parola (Song Tử Đông) và Pag-asa (Thị Tứ).

VOA (15.05.2023)

 

 

Tàu khảo sát Trung cộngtiếp tục “quậy” vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam

Sơ đồ hoạt động của Hướng Dương Hồng từ 7/5/2023 đến nay trong EEZ của VN MarineTraffic

 

Tàu khảo sát của Trung cộng đang có mặt tại Bãi Tư Chính của việt Nam trong khi  tàu Cảnh sát biển Việt Nam CBS 7011 đang theo sát.

Dữ liệu từ Marine Traffic mà RFA ghi nhận được trong ngày 15/5 cho thấy tàu khảo sát Hướng Dương Hồng (Xiang Yang Hong 10) của Trung cộngtrong hai ngày qua vẫn đi lại trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.

Như RFA đã đưa tin, từ hôm 7 tháng 5 năm 2023, tàu khảo sát của Trung cộng Hướng Dương Hồng (Xiang Yang Hong 10) cùng đội tàu hộ tống hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Các tàu chấp pháp của Việt Nam ra thực địa để đi theo giám sát các hoạt động của Trung cộng.

Trong ngày 13 tháng 5 năm 2023, tàu Xiang Yang Hong 10 đã tiến về phía đông bắc, dường như muốn rời khỏi vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam sau thời gian dài tiến hành khảo sát bất hợp pháp. Tuy nhiên, hôm 14 tháng 5, con tàu này đột ngột quay ngược trở lại vùng Tư Chính, nơi khai thăm dò khai thác dầu khí của Việt Nam. Hành động tiến về phía đông bắc của tàu Xiang Yang Hong 10 dường như là để đánh lạc hướng các tàu chấp pháp của Việt Nam.

Theo dữ liệu của AIS mà RFA có được hôm 15/5, tại vùng biển Bãi Tư Chính, tàu Cảnh sát biển Việt Nam CBS 7011 đang theo sát tàu Xiang Yang Hong của Trung cộng. Tàu CSB 7011 được hỗ trợ bởi tàu CSB 8001.

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung cộngđã xác nhận với Reuters rằng “Các tàu nghiên cứu khoa học và đánh cá của Trung cộngthực hiện các hoạt động sản xuất và làm việc bình thường trong các vùng biển thuộc quyền tài phán của Trung cộng.” Như vậy, Trung cộngđã xác nhận chính thức đây không phải là hoạt động “đi qua không gây hại” hay “tự do hàng hải” mà là hoạt động thực thi đòi hỏi “chủ quyền” của họ trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.

Zhang Mingliang, giáo sư Đại học Tế Nam chuyên nghiên cứu về Biển Đông, nói với tờ South China Morning Post rằng: “Trong những năm gần đây, các phương tiện truyền thông chính thống của Trung cộngvà Việt Nam không đưa tin về các loại đối đầu này – chỉ đưa tin về những cá nhân cụ thể đưa tin chi tiết trên các nền tảng truyền thông xã hội của họ.

“Các phương tiện truyền thông mạng xã hội và thậm chí cả các phương tiện ở tuyến đầu đều là những tay chơi tốt, giữ cho các tranh chấp đang diễn ra minh bạch, nhưng không khuấy động rắc rối.”

Ông Duân Đặng, một nhà báo độc lập chuyên theo dõi vấn đề Biển Đông viết trên Twitter rằng “đội tàu Trung cộngđã tiếp cận giếng dầu DGN-4X hôm thứ tư (10/5) sau khi một giàn khoan đã được kéo tới đó,” và “Hành động khiêu khích này dường như nhằm gây sức ép buộc Việt Nam dừng chiến dịch khoan mới ở Lô 05-1A.”

Hoạt động thăm dò của Việt Nam tại lô 05-1A không phải là hành động mới xảy ra. Lô dầu khí này nằm trong mỏ Đại Hùng thuộc vùng biển Tư Chính, được Việt Nam phát hiện năm 1988, đã từng hợp tác với nhiều công ty như BHP (Australia), Total (Pháp), Petronas (Malaysia), Sumitomo (Nhật), Zarubezhneft (Nga) từ hơn hai mươi năm qua.

RFA (15.05.2023)

 

 

Nga sẽ “không” ủng hộ Việt Nam nếu xảy ra xung đột với Trung cộngở Biển Đông ?

Trung cộnglại huy động « một số lượng lớn tầu dân quân và tầu hải cảnh » đến gần khu vực khai thác khí đốt của Việt Nam ở Biển Đông trong ngày 10/05/2023. Theo chuyên gia Ray Powell, Đại học Stanford (Mỹ), hoạt động này có tính chất « bất thường », có thể được coi là « thông điệp về quyền tài phán của Trung cộngđối với các hoạt động dầu khí của Việt Nam »

Ảnh minh họa: Một nhà giàn khai thác dầu khí của Việt Nam ở Trường Sa, Biển Đông Reuters

Bắc Kinh sau đó xác nhận điều này, khi khẳng định tầu của Trung cộngchỉ hoạt động « bình thường » trong vùng biển « thuộc quyền tài phán của Trung cộng».

Đội tầu của Trung cộnghoạt động cách lô 04-03 của Vietsovpetro khoảng 32 km. Vietsovpetro là liên doanh giữa tập đoàn Nga Zarubezhneft và PetroVietnam. Sự kiện này xảy ra vào lúc Matxcơva đang xích lại gần với Bắc Kinh nhằm tìm kiếm hậu thuẫn và hình thành một liên minh đối trọng với phương Tây, trong khi Nga cũng là đối tác quan trọng của Việt Nam trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là quân sự và khai thác dầu khí.

Liệu sự phụ thuộc chặt chẽ hơn vào Bắc Kinh có khiến Matxcơva điều chỉnh thái độ với Hà Nội ? Nga sẽ nhắm mắt làm ngơ trước yêu sách của Trung cộngđộc chiếm Biển Đông ? RFI Tiếng Việt đặt câu hỏi với nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, Trường Sư Phạm Lyon, Pháp.

 

RFI : Nhiều doanh nghiệp Nga tham gia khai thác dầu khí ở Biển Đông, trong khi Việt Nam dường như từng phải hủy một số dự án với các công ty nước ngoài khác, ví dụ với tập đoàn Tây Ban Nha Repsol. Các tập đoàn dầu khí Nga có phải là một phương tiện hỗ trợ Việt Nam bảo vệ chủ quyền ở Biển Đông ?  

Laurent Gédéon : Đúng là Trung cộngkhông ngừng gây sức ép làm Việt Nam nản lòng trong việc tự thăm dò dầu khí, kể cả trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ). Vì thế Bắc Kinh đã dùng cả những biện pháp đe dọa quân sự trực tiếp, gây áp lực với các công ty nước ngoài tham gia những dự án đó. Yêu sách chủ quyền của Trung cộngtrong phạm vi đường 9 đoạn đã được định hình lại năm 2017 và gộp cả phần lớn vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, trong đó có gần 70 mỏ dầu khí. Chúng ta còn nhớ là vào tháng 07/2019, đội tầu Hải Dương địa chất 8 của Trung cộng, gồm 1 tầu khảo sát và 4 tầu hải cảnh, đã qua lại thường xuyên gần hai cụm dầu khí nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam gây xáo trộn hoạt động thăm dò.  

Có thể thấy Bắc Kinh tiến hành một cách bài bản chiến lược gây áp lực với đối tác nước ngoài tham gia vào những dự án dầu khí ở Việt Nam nhằm buộc họ từ bỏ thị trường và cản trở hoạt động khai thác dầu mỏ của Việt Nam. Chiến lược này đã được áp dụng hiệu quả đối với công ty Repsol. Năm 2018, chi nhánh của công ty Tây Ban Nha tại Việt Nam đã phải tạm dừng hoạt động do bị Trung cộngđe dọa trực tiếp. Đến năm 2019, Repsol rút khỏi thị trường Việt Nam. Không chỉ riêng Repsol, Trung cộnggây áp lực với nhiều công ty dầu khí nước ngoài khác tham gia ở Việt Nam, như Mubadala Petroleum đến từ Abu Dhabi (Các Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất). 

Tuy nhiên, vấn đề lại phức tạp hơn đối với các đối tác Nga. Ví dụ, tháng 05/2018, tập đoàn Rosneft bày tỏ quan ngại với Hà Nội về việc Bắc Kinh tái xác định đường 9 đoạn với hệ quả là gộp cả mỏ Lan Đỏ do tập đoàn Nga khai thác vào khu vực Trung cộngđòi chủ quyền. Quan ngại được đưa ra trong bối cảnh suốt nhiều năm trước, Bắc Kinh đã không thuyết phục được Matxcơva chấm dứt hoạt động của Rosneft ở Biển Đông, cũng như ở trong vùng. Năm 2013, Bắc Kinh từng phản đối khi Rosneft bắt đầu thăm dò ở mỏ Lan Đỏ. Trái lại, Trung cộngđã thu được một thành công khi một dự án hợp tác giữa PetroVietnam và nhà sản xuất khí đốt Nga Gazprom bị đình chỉ năm 2016. 

Trong bối cảnh nhạy cảm đó, người ta thấy là từ vài năm gần đây, các tập đoàn Nga – tất cả đều thân với chính quyền Matxcơva – tiến hành chiến lược tránh rời khỏi « chiến tuyến » và dốc sức để không bị « hất » khỏi thị trường Việt Nam. Nga muốn trở thành một nhân tố năng động hơn về kinh tế lẫn chiến lược ở Đông Nam Á. Matxcơva cũng không muốn Bắc Kinh kiểm soát những tuyến đường hàng hải chiến lược về địa-chính trị nối Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. 

Theo tôi, tham vọng này của Nga càng được củng cố thêm trong bối cảnh xung đột ở Ukraina, đồng thời bổ trợ cho chiến lược của Hà Nội đang tìm cách gia tăng quan hệ với các đối tác ngoài khu vực để giảm phụ thuộc kinh tế vào Trung cộng. Theo tôi, có thể khẳng định rằng có sự đồng nhất về lợi ích giữa Việt Nam và Nga thông qua trung gian là các công ty dầu khí. Mục đích là không để cho Trung cộngcó quá nhiều không gian kinh tế và chiến lược ở Biển Đông. Cho nên chừng nào vị thế của Nga chưa bị suy yếu quá nhiều, ví dụ do tác động từ thất bại ở Ukraina nếu xảy ra chẳng hạn, Hà Nội vẫn có thể dựa vào đối tác hùng mạnh này để chống đỡ áp lực từ Trung cộng.  

 

RFI : Tuy nhiên, chúng ta thấy là Nga có xu hướng ngả theo Bắc Kinh và đang củng cố mối quan hệ trên nhiều lĩnh vực với Trung cộng. Những tập đoàn dầu khí Nga hoạt động ở Biển Đông sẽ bị tác động như thế nào, trong khi thường họ có thể « theo lệnh » từ Matxcơva ?  

Laurent Gédéon : Để trả lời cho câu hỏi này, phải biết là mối quan hệ giữa Matxcơva và Bắc Kinh được đánh dấu bằng sự phụ thuộc vào nhau rất mạnh về địa-chính trị và sự thuộc lẫn nhau đó lại không liên quan đến tình trạng bất đối xứng đặc trưng cho hai nước này. Sự phụ thuộc này bắt nguồn từ ý đồ của Trung cộngmuốn hướng tới tái cân bằng các cực quyền lực trên thế giới.  

Như chúng ta biết chiến lược của Trung cộngđã khiến Washington ngày càng mất niềm tin. Hoa Kỳ từng bước đưa ra một khuôn khổ nhằm kiềm chế tham vọng của Bắc Kinh, đặc biệt là ở các vùng biển sát với Trung cộng, có nghĩa là trong vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương. Được bắt đầu dưới thời tổng thống Barack Obama với tên gọi « chiến lược xoay trục sang châu Á », chính sách này tiếp tục được mở rộng dưới thời tổng thống Donald Trump với « thương chiến Mỹ-Trung » và hiện giờ dưới thời Joe Biden là Hoa Kỳ thắt chặt quan hệ chiến lược với các đồng minh trong vùng, triển khai những cơ chế liên minh mới, như liên minh quân sự AUKUS được ba nước Mỹ, Úc, Anh công bố ngày 15/09/2021.  

Trong toàn cảnh như vậy, Trung cộngkhông thể đơn độc đối đầu với cả khối phương Tây. « Phương Tây » ở đây được hiểu theo nghĩa rộng, nghĩa là gồm cả những nước có liên quan đến khối này, kể cả những nước ở châu Á. Bắc Kinh phải huy động mọi sự ủng hộ quốc tế. Để làm được việc này, đối với Trung cộng, chắc chắn Nga đại điện cho sức mạnh về quân sự, ngoại giao và chính trị, như tôi đã đề cập ở trên về việc hai nước này phụ thuộc chặt chẽ vào nhau về địa-chính trị. Để thấy điều này, chỉ cần nhìn vào sự trùng hợp giữa các lá phiếu của Nga và Trung cộngtại Liên Hiệp Quốc trong thập niên vừa qua.  

Dù hiện giờ người ta nhắc đến khả năng Nga lâm thế phụ thuộc kinh tế vào Trung cộngnhưng còn lâu mới thấy cảnh Matxcơva tuân lệnh Bắc Kinh về chính sách đối ngoại hoặc kinh tế. Tôi cho rằng điều này cũng sẽ liên quan đến các doanh nghiệp dầu khí Nga ở Việt Nam. Khả năng hành động của những công ty này phụ thuộc vào Nhà nước Nga, vào sự cân bằng quyền lực ngoại giao tế nhị giữa Matxcơva và Bắc Kinh. Dẫu sao chắc chắn là sự hiện diện của những công ty này cho phép Nga đánh dấu sự khác biệt của họ. Rất có thể nếu thế cân bằng Nga-Trung được duy trì nguyên trạng thì các công ty dầu mỏ Nga sẽ duy trì hoạt động ở Việt Nam. 

 

RFI : Có nghĩa là hiện giờ Việt Nam không cần quá lo lắng về nguy cơ Nga ủng hộ những yêu sách về chủ quyền của Trung cộngtrong đường 9 đoạn ở Biển Đông ?  

Laurent Gédéon : Trong bối cảnh phụ thuộc vào nhau về địa-chính trị như tôi vừa nêu, Nga không thể đi xa hơn việc ủng hộ những yêu sách của Trung cộngđối với Đài Loan lẫn Biển Đông. Chúng ta thấy là Trung cộngtừ chối lên án cuộc xâm lược Ukraina và chỉ kêu gọi các bên tham chiến đối thoại. Ngoài ra, cũng cần nhấn mạnh đến sức mạnh và đặc thù của mối quan hệ Nga – Trung nên rất khó cho Matxcơva lên tiếng chỉ trích những đòi hỏi chủ quyền của Bắc Kinh.  

Thêm vào đó phải kể đến những yếu tố mang tính pháp lý và lịch sử bởi vì Matxcơva biện minh cho cuộc xâm chiếm bán đảo Crimée vì đó là vùng đất lịch sử của Nga, ít nhất là từ năm 1792. Tương tự, Trung cộngcũng viện đến lập luận lịch sử để đòi chủ quyền với hầu hết vùng Biển Đông. Nhìn từ phía Nga, có thể thấy mối quan hệ song song giữa Crimée – vùng đất lịch sử của Nga với Biển Đông – vùng biển lịch sử của Trung cộngnếu tin theo lập luận của Bắc Kinh. Vì những lý do chiến thuật đó, Matxcơva có thể có xu hướng ủng hộ Bắc Kinh theo hướng này.  

Theo tôi, dù có lập luận như thế, không có nghĩa là Matxcơva sẽ tự động và ủng hộ hết mình một « cuộc đảo chính » của Trung cộngở Biển Đông. Thực vậy, Nga cũng ý thức rằng khả năng địa-chính trị của nước láng giềng hùng mạnh trong chừng mực nào đó phải bị hạn chế bởi vì mọi sự củng cố sức mạnh của Trung cộngsẽ có nguy cơ gây bất lợi cho Nga trong quan hệ song phương bất đối xứng hiện nay.  

Chúng ta có thể sẽ thấy là Nga sẽ không ủng hộ mạnh mẽ hành động của Trung cộngnhư Bắc Kinh mong đợi. Thêm vào đó Nga gắn bó với Việt Nam từ lâu, từ thời kỳ Liên Xô hỗ trợ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, sau đó là nước CHXHCN Việt Nam, giúp Việt Nam trong chiến tranh biên giới với Trung cộngnăm 1979. Có thể thấy rằng Việt Nam không phải chỉ là một cơ hội chính trị và chiến thuật đối với Nga mà còn nằm trong khuôn khổ quan hệ lâu dài cho thấy mối quan hệ mật thiết, bền vững giữa hai nước.  

 

RFI : Việt Nam và Nga nhất trí là không can thiệp vào chuyện nội bộ của nhau. Giả sử xảy ra xung đột liên quan đến tranh chấp chủ quyền với Trung cộngở Biển Đông, liệu Việt Nam có thể trông cậy vào hỗ trợ của Nga ? 

Laurent Gédéon : Trong trường hợp như vậy thì ví dụ ở vùng Thượng Karabakh không cho thấy lạc quan lắm. Hiện giờ, Nga bị kéo vào cuộc xung đột khó khăn ở Ukraina và duy trì mối quan hệ ngoại giao phức tạp với các cường quốc khác. Những nước này không công khai ủng hộ hành động của Nga ở Ukraina nhưng từ chối lên án và cũng không tham gia phần nào vào cơ chế trừng phạt Matxcơva do phương Tây áp đặt. Tuy nhiên, sự ủng hộ này, xuất phát từ việc có chung lập trường chính trị hoặc có chung lợi ích chiến lược và địa-chính trị, cũng phải có qua có lại. Đây là điểm liên quan đặc biệt đến hai nước Nga và Trung cộng.  

Tôi lấy ví dụ vùng Thượng Karabakh là bởi vì Nga vẫn được Armenia coi là một trụ cột hỗ trợ vững chắc, kể cả lúc khủng hoảng tháng 10/2020. Nga chủ trì cuộc hưu chiến ngày 10/11/2020 và chính lính Nga được triển khai trong vùng lãnh thổ tranh chấp và ở hành lang Latchine nối vùng này với Armenia để duy trì lệnh ngừng bắn đó. Nhưng chúng ta thấy từ một năm nay, có nghĩa là từ đầu chiến tranh Ukraina, phía Azerbadjan liên tục gây sự cố. Vụ mới nhất là phong tỏa hành lang Latchine do chính quân đội Nga bảo đảm an ninh.  

Lý do giải thích tình trạng xuống cấp này và việc ảnh hưởng của Nga dường như đã bị suy giảm liên quan chủ yếu đến việc lập trường nước đôi của Thổ Nhĩ Kỳ đã làm cho Matxcơva hạn chế áp lực ngoại giao, và cũng do sức ép kinh tế từ NATO. Việc Thổ Nhĩ Kỳ tạo thuận lợi có thể là điều kiện « có đi có lại », có nghĩa là Nga phải trung lập hơn trước áp lực ngày càng lớn của Azerbaijan – một đồng minh của Thổ Nhĩ Kỳ – đối với Armenia để gộp toàn bộ vùng Thượng Karabakh vào nước Cộng Hòa Azerbaijan. 

Nếu giờ chúng ta đưa ví dụ này vào tình hình Biển Đông, trong giả thuyết xảy ra một cuộc xung đột trực tiếp giữa Việt Nam và Trung cộngtrong tương lai gần, thì e rằng Nga sẽ lại rơi vào tình huống tương tự như chúng ta thấy ở vùng Kavkaz. Thực vậy, sự phụ thuộc nhau về địa-chính trị với Trung cộngmà chúng ta đề cập ở trên, cũng như việc Nga phải tiếp tục hưởng sự hỗ trợ ngoại giao, kinh tế và nhiều lĩnh vực khác từ cường quốc láng giềng, có thể dẫn đến việc các nhà lãnh đạo Nga phải hạn chế phản đối và thậm chí im lặng trước hành động của Trung cộng, bất chấp việc Việt Nam là một nước có lợi cho Matxcơva như chúng ta đã nói. 

Vì thế, tất cả sẽ còn phụ thuộc vào mức độ lệ thuộc địa chính trị Nga-Trung, vào thời điểm nổ ra xung đột trong trường hợp xảy ra. Do đó, có lẽ Việt Nam cần kích hoạt trước những kênh ngoại giao với Matxcơva để triển khai một khuôn khổ hợp tác khủng hoảng với Nga và nếu có thể, tác động đến phân tích của Nga về tình hình Đông Nam Á. 

RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, giảng viên Trường Sư phạm Lyon, Pháp. 

RFI (15.05.2023)