Viện Việt Học mở hội thảo về ‘ngôn ngữ miền Nam bị xâm thực’

Văn Lan/Người Việt

WESTMINSTER, California (NV) – Buổi nói chuyện về đề tài “Ngôn ngữ miền Nam tiếp tục bị ‘xâm thực’” do Luật Sư Đỗ Thái Nhiên đề xướng, diễn ra tại Viện Việt Học, Westminster, hôm Chủ Nhật, 26 Tháng Năm, cả khán phòng gần như không còn chỗ trống.

 

Quang cảnh buổi nói chuyện “Ngôn ngữ miền Nam tiếp tục bị ‘xâm thực’” với diễn giả chính là Luật Sư Đỗ Thái Nhiên. (Hình: Văn Lan/Người Việt)

Luật Sư Đỗ Thái Nhiên trình bày đề tài này trong hai giờ đồng hồ, sau đó với phần tham luận của người tham dự, biến buổi nói chuyện trở thành một buổi hội luận sôi nổi và khá căng thẳng, nhưng cũng có phần nào nhẹ hơn khi những phút giây văn nghệ xen kẽ khiến không khí bớt “nóng” hơn.

Mở đầu câu chuyện, Luật Sư Đỗ Thái Nhiên cho hay vào Tháng Ba, 2022, bến Bạch Đằng ở Sài Gòn bị đổi tên thành “Ga Tàu Thủy Bạch Đằng.” Sự kiện này dẫn đến những tranh luận gay gắt trong dân gian quanh đề tài: “Ngôn ngữ Hà Nội (ngôn ngữ miền Bắc) đang làm mờ dần sắc thái đặc biệt của ngôn ngữ miền Nam Việt Nam.”

Diễn giả cho biết, ngày 4 Tháng Ba, BBC News Tiếng Việt phổ biến một bài viết có tựa đề: “Phương Ngữ Miền Nam Việt Nam đang tiếp tục bị xâm thực.” Bài viết này dẫn chứng rằng phương ngữ Hà Nội theo chữ nghĩa của đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN) đã tràn ngập các bảng chỉ đường, trong sách giáo khoa, trên báo chí tại Việt Nam nói chung và tại miền Nam Việt Nam nói riêng.

Sự kiện “xâm thực” được dẫn chứng bằng một số thí dụ điển hình như: Miền Nam gọi là bùng binh, miền Bắc đổi thành vòng xuyến; Giao lộ, ngã tư, ngã năm, đổi thành nút giao; Xe cộ thành phương tiện; Tài xế thành lái xe…

Luật Sư Đỗ Thái Nhiên giải thích rằng, để giúp ngôn ngữ đảng CSVN tràn ngập vào Nam, giúp Hà Nội thực hiện hành động “xâm thực” để đảng hóa ngôn ngữ của miền Nam Việt Nam, có ba phương pháp chính yếu.

 

Đông đảo cư dân Little Saigon tham dự buổi nói chuyện. (Hình: Văn Lan/Người Việt)

Thứ nhất, độc quyền giảng dạy và độc quyền in sách giáo khoa cho sinh viên học sinh. Khác hẳn với giáo dục thời VNCH, khi Bộ Quốc Gia Giáo Dục không độc quyền sách giáo khoa, các giáo sư dạy các môn Việt Văn, Sinh Ngữ,… được xuất bản sách để giảng dạy, và sách nào hay và dễ hiểu, nhà trường tùy nghi chọn lựa.

Guồng máy giáo dục CSVN đều là ngôn ngữ đảng, nhồi nhét vào đầu não học sinh, khiến các thế hệ trẻ xuất thân từ hệ thống giáo dục của Hà Nội đều cảm thấy xa lạ mỗi khi nghe nói tới ngôn ngữ địa phương của Việt Nam, nhất là của miền Nam Việt Nam.

Thứ hai, nhà nước độc quyền xuất bản sách báo, và độc quyền kiểm soát báo chí. Muốn bài vở, sách báo được qua cửa ải kiểm duyệt, giới cầm bút tại Việt Nam thường phải viết theo cung cách và sử dụng ngôn ngữ của đảng.

Thứ ba, VTV là đài truyền hình quốc gia duy nhất của đảng CSVN, được vô số cơ quan truyền thông tiếp vận về địa phương. Đó là lý do tại sao hầu như toàn bộ truyền thông Việt Nam đều tuyển dụng nhân viên truyền thanh, truyền hình nói giọng Bắc, viết và dùng ngôn ngữ của đảng.

Vị diễn giả cũng nhấn mạnh: “Hiến Pháp năm 2013 của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đã long trọng minh định: ‘Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, gìn giữ bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình.’ Rõ ràng Hà Nội thừa biết hành động bôi xóa ngôn ngữ địa phương của miền Nam Việt Nam là một việc làm trái với Hiến Pháp do chính chế độ Hà Nội viết ra?”

 

Luật Sư Đỗ Thái Nhiên. (Hình: Văn Lan/Người Việt)

Hà Nội trả lời câu hỏi này, là để “chuẩn hóa và thống nhất tiếng Việt,” như một phương pháp mặc nhiên dẫn đến đoàn kết toàn dân, thống nhất ngôn ngữ Việt Nam, thống nhất nhân tâm.

“Lời lẽ biện minh của Hà Nội có thỏa đáng và nghiêm chỉnh không?” ông Nhiên đặt câu hỏi.

Phần hai là Nhận Định Về Đại Họa Xâm Thực Ngôn Ngữ Địa Phương

Ý niệm văn minh ra đời để mọi suy nghĩ và hành động làm cho xã hội loài người văn minh hơn, gọi là văn hóa. Văn hóa qua sự truyền đạt của ngôn ngữ xác quyết rằng điểm trội yếu của văn minh là sự đòi hỏi mọi người sinh ra đều bình đẳng, hàm ý bình đẳng về cơ hội sống đời sống tinh thần và đời sống thể chất.

Xã hội loài người khởi đi từ bộ lạc, tiến lên làng xã rồi mới đến quốc gia. Địa phương có trước quốc gia, địa phương là gốc rễ của quốc gia. Không có địa phương, không thể có quốc gia. Do đó không có bất kỳ ngôn ngữ nào không xuất phát từ một địa phương cụ thể. Ngôn ngữ là gạch nối giữa con người với con người, là phương tiện gói ghém phong tục tập quán, văn hóa địa phương và nhất là lòng yêu thương quê cha đất tổ. Ngôn ngữ là chỉ dấu của tự do tư tưởng, tự do biểu tỏ trí thông minh và óc sáng tạo, là linh hồn của văn hóa địa phương.

Ngôn ngữ đan quyện vào văn hóa, làm cho văn hóa được hiển lộ. Ngôn ngữ đích thực là linh hồn của văn hóa. Xâm thực ngôn ngữ địa phương chính là thủ tiêu sinh mệnh văn hóa của địa phương.

 

Từ trái, Hoàng Oanh, Ái Phương, và Lâm Dung trong ca khúc “Hội Trùng Dương” tại Viện Việt Học. (Hình: Văn Lan/Người Việt)

Từ sau 30 Tháng Tư, 1975, CSVN nắm giữ toàn bộ guồng máy hành chánh Việt Nam từ trung ương tới địa phương. Riêng linh hồn của địa phương, nói theo kiểu ông Võ Văn Kiệt “bên cạnh một triệu người vui có một triệu người buồn,” lòng dân ly tán. Vì vậy, nhằm làm biến mất một triệu nỗi buồn kia, CSVN chiếm giữ linh hồn của địa phương bằng cách xâm thực phương ngữ, đặc biệt là phương ngữ miền Nam Việt Nam, là linh hồn của văn hóa địa phương.

Luật Sư Đỗ Thái Nhiên kết luận: “Thống nhất ngôn ngữ nhưng vẫn bảo vệ được tính sinh ngữ của ngôn ngữ là phương pháp khoa học và thích nghi nhất trong công việc vừa xây dựng ngôn ngữ chung vừa giúp cho văn hóa liên tục phát triển trong phong phú, thông minh và sáng tạo. Câu chuyện ‘đảng ngữ’ xâm thực phương ngữ Việt Nam với hậu ý ‘đảng hóa văn hóa Việt Nam’ đã mở ra trong tâm trí người Việt hải ngoại nghĩa vụ phục hoạt văn hóa truyền thống của tổ tiên Việt Nam.”

Tất cả những gì phục vụ đời sống của con người, những gì thuận theo lòng người đều hàm chứa trong văn hóa Việt. Điều này đã giải thích tại sao nhạc vàng của miền Nam Việt Nam trước 1975 vẫn lừng lững phục sinh mặc cho mọi nỗ lực triệt để ngăn cấm của CSVN.

Có một người cho biết là một người trẻ học và dạy học sau 1975, nay qua đây không biết chữ nghĩa tiếng Việt như thế nào mới chính xác.

 

Luật Sư Đỗ Thái Nhiên và một số người tham dự buổi nói chuyện về ngôn ngữ miền Nam Việt Nam. (Hình: Văn Lan/Người Việt)

Và một ý kiến đưa ra là thay vì cứ để tình trạng “xâm thực” chữ nghĩa ở Việt Nam kéo dài, chi bằng người Việt ở hải ngoại nên làm một việc cụ thể là cùng nhau góp sức làm một quyển tự điển tiếng Việt trước 1975 trong nhiều bộ môn, giải thích ý nghĩa rõ ràng, đối chiếu với tiếng Việt sau này, từ đó có thể sẽ giúp được nhiều người hơn, kể cả người trong nước.

Buổi nói chuyện đi đến kết luận của diễn giả là người Việt hải ngoại hãy thân mến ngồi xuống bên nhau, cùng nhau thảo luận về văn hóa truyền thống Việt. Đi theo văn hóa truyền thống được phục hoạt, tự do dân chủ sẽ đến với Việt Nam chậm rãi nhưng vững vàng đúng như hình ảnh nhạc vàng đã bừng bừng sống lại toàn cõi quê hương Việt Nam.

Luật Sư Đỗ Thái Nhiên sinh năm 1943 tại Quận Nhất, Sài Gòn. Ông là cựu luật sư Tòa Thượng Thẩm Sài Gòn, cựu sĩ quan tổng quản trị Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực VNCH, cựu tù nhân chính trị sau 30 Tháng Tư, 1975. Ông vượt biên và định cư tại Hoa Kỳ vào Tháng Hai, 1986.

Tác giả của “Triết Học Lý Đông A” (nhà xuất bản Thời Văn-2005), “Một Quan Niệm Chung Cho Nhân Quyền” (nhà xuất bản Miền Nam-2014), và “Vận Động Hòa Bình” (tự xuất bản-2023). [đ.d.]

 

Tại Viện Việt Học ngày 26 tháng 5, 2024

Ngôn ngữ của miền Nam Việt Nam đang tiếp tục bị xâm thực

 

27/05/2024

Đỗ Thái Nhiên

Việt Báo

DienGiaDoThaiNhien

Diễn giả Đỗ Thái Nhiên.

Tháng 3/2022, Bến Bạch Đằng Saigon bị đổi tên thành “Ga Tàu Thủy Bạch Đằng”. Sự kiện này đã dẫn đến những tranh luận trong dân gian chung quanh đề tài: Ngôn ngữ Hà Nội (ngôn ngữ miền Bắc) đang làm mờ dần sắc thái đặc biệt của ngôn ngữ miền Nam Việt Nam.

    Ngày 4 tháng 3 năm 2024, BBC NEWS đã phổ biến một bài viết có tựa đề:
    “Phương Ngữ Miền Nam Việt Nam đang tiếp tục bị xâm thực”. Bài viết này ghi nhận rằng phương ngữ Hà Nội, phương ngữ đảng thì đúng hơn, đã tràn ngập các bảng chỉ đường, cách viết trên sách giáo khoa, trên báo chí. Sự kiện “xâm thực” kia xin được dẫn chứng bằng một số thí dụ điển hình như sau:
    – Miền Nam gọi là bùng binh, Miền Bắc đổi thành vòng xuyến.
    – Giao lộ, ngã 4, ngã 5 đổi thành nút giao
    – Xe cộ: phương tiện giao thông
    – Lái xe: điều khiển phương tiện giao thông
    – Con rùa: cá thể rùa
    – Đi dạo, đi lang thang: đi phượt
    – Đi cổ vũ, đi hoan hô: đi bão
    – Đương sự: đối tượng
    – Nguyên đơn: bị hại
    – Thực hiện nhiệm vụ: bám sát nhiệm vụ
    – Có giá trị: chất lượng cao
    – Thi hành hữu hiệu: làm rất tốt
    Nhà báo Cù Mai Công, nguyên thư ký tòa soạn báo Tuổi Trẻ, một cây bút viết sách về Saigon xưa, nói với BBC News tiếng Việt rằng: nếu kể về ngôn ngữ miền Bắc tràn vào miền Nam thì “nhiều lắm, kể không nổi đâu và cũng không cần kể vì ai cũng thấy, cũng nghe ra rả hàng ngày”.
    Vẫn theo bài viết của BBC News, sở dĩ ngôn ngữ đảng CSVN phủ sóng áp đảo trên toàn thể Việt Nam, đặc biệt là trên miền Nam Việt Nam là vì Hà Nội nắm lợi thế của truyền thông, lợi thế của bộ máy nhà nước. Sau đây là ba phương pháp chính yếu giúp Hà Nội thực hiện hành động xâm thực ngôn ngữ của địa phương miền Nam Việt Nam:
    1- Nhà nước Hà Nội là chế độ toàn trị. Vì vậy Hà Nội nắm giữ độc quyền giảng dạy và độc quyền in sách giáo khoa cho sinh viên học sinh. Từ đó ngôn và lời của guồng máy giáo dục kia đều là ngôn ngữ đảng. Và cũng từ đó các thế hệ trẻ xuất thân từ hệ thống giáo dục của Hà Nội đều cảm thấy xa lạ mỗi khi nghe nói tới ngôn ngữ địa phương của Việt Nam, nhất là của miền Nam Việt Nam.
    2- Nhà nước độc quyền xuất bản sách báo và độc quyền kiểm soát báo chí. Vì vậy muốn cho bài vỡ, sách báo đi qua cửa ải kiểm duyệt một cách êm ả, giới cầm bút tại Việt Nam thường phải viết theo cung cách của đảng, sử dụng ngôn ngữ đảng.
Đây là một quy định ngầm trong giới báo chí.
    3- Đài VTV là đài truyền hình quốc gia duy nhất tại Việt Nam. VTV lại được vô số cơ quan truyền thông tiếp vận về địa phương. Điều này giải thích lý do tại sao hầu như toàn bộ truyền thông Viêt Nam đều tuyển dụng nhân viên truyền thanh, truyền hình nói giọng Bắc, viết kiểu đảng, dùng ngôn ngữ của đảng.
    Sau cùng xin được nhấn mạnh: Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đã long trọng minh định: “Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt.

Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, gìn giữ bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình”. Rõ ràng Hà Nội thừa biết hành động bôi xóa ngôn ngữ địa phương của miền Nam Việt Nam là một việc làm trái với hiến pháp do chính chế độ Hà Nội viết ra? Thế nhưng, tại sao Hà Nội vẫn quyết liệt hành động một cách có hệ thống? Hà Nội trả lời câu hỏi này bằng cách nêu vấn đề “chuẩn hóa và thống nhất tiếng Việt” như một phương pháp mặc nhiên dẫn đến đoàn kết toàn dân, thống nhất nhân tâm. Lời lẽ biện minh kia của Hà Nội có thỏa đáng và nghiêm chỉnh hay không? Người cầm bút xin được bình giải thắc mắc vừa kể ở phần nói về nhận thức đối với hiện tượng ngôn ngữ miền Nam Việt Nam bị xâm thực.

 

Nhận Định Về Đại Họa Xâm Thực Ngôn Ngữ Địa Phương
Nhận định về sự kiện ngôn ngữ miền Nam Việt Nam bị xâm thực, chúng ta không thể không khảo sát mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa.
    Trái nghĩa với văn minh là dã man. Dã man là tình huống sống không có sự khác biệt giữa đời người và kiếp vật. Với đà tiến hóa của lịch sử, con người bắt đầu nhận ra đời người cần phải được tổ chức khác hẳn và cao cấp hơn kiếp vật. Từ đó ý niệm văn minh ra đời: văn minh là khoảng cách biệt trong sinh sống giữa đời người và kiếp vật. Và cũng từ đó mọi suy nghĩ và hành động nhằm làm cho xã hội loài người hóa thành văn minh hơn gọi là văn hóa.
    Văn hóa qua sự truyền đạt của ngôn ngữ xác quyết rằng: điểm trội yếu của văn minh là sự đòi hỏi mọi người (cá nhân và pháp nhân tư nhân) sanh ra đều bình đẳng và rằng bình đẳng hàm ý bình đẳng về cơ hội sống: đời sống tinh thần và đời sống thể chất.
    Xã hội loài người khởi đi từ bộ lạc, tiến lên làng xã rồi mới đến quốc gia. Nói rõ ra địa phương có trước quốc gia, đia phương là gốc rễ của quốc gia. Không có địa phương, không thể có quốc gia.
    Mặt khác, Không có bất kỳ ngôn ngữ nào không xuất phát từ một địa phương cụ thể.
    1- Ngôn ngữ là gạch nối giữa con người với con người.
    2- Ngôn ngữ là phương tiện gói ghém phong tục tập quán, văn hóa địa phương và nhất là lòng yêu thương quê cha đất tổ.
    3- Ngôn ngữ là chỉ dấu của tự do tư tưởng, tự do biểu tỏ trí thông minh và óc
sáng tạo.
    4- Ngôn ngữ là linh hồn của văn hóa địa phương.
    Những điều vừa trình bày nói lên sự cách biệt giữa đời người và kiếp vật, đây
là văn hóa. Ngôn ngữ đan quyện vào văn hóa, làm cho văn hóa được hiển lộ. Ngôn ngữ đích thực là linh hồn của văn hóa. Xâm thực ngôn ngữ địa phương chính là thủ tiêu sinh mệnh văn hóa của địa phương.
    Nếu quốc gia là một guồng máy thì địa phương là những cơ phận của guồng máy kia. Trong trường hợp sinh hoạt của địa phương không tồn tại trên căn bản độc-lập-nhưng-liên-lập thì địa phương hiển nhiên là những gốc cây khô và quốc gia chỉ là quốc gia không gốc rễ, quốc gia do chế độ độc tài nhào nặn ra.
    Từ mỗi địa phương lên đến quốc gia, tất cả đều được hình thành bởi hai yếu
tố: Linh hồn đia phương: lòng yêu thương dãy núi, bờ sông, hàng tre, ruộng lúa, yêu đồng quê, yêu tổ quốc, yêu đời sống tự chủ, yêu phong tục tập quán, yêu ngôn ngữ vùng miền, yêu cảnh quang quê cha, đất tổ, yêu “phép vua thua lệ làng”… Nói chung là yêu và sống quấn quyện trong văn hóa. Văn hóa thăng hoa sản sinh ra văn, thi, nhạc, họa.
    1- Văn là ngôn ngữ của bút mực.
    2- Thi là ngôn ngữ của vần điệu.
    3- Nhạc là ngôn ngữ của âm thanh.
    4- Họa là ngôn ngữ của màu sắc.
    Ngôn ngữ thực sự là linh hồn của bốn viên ngọc quý, của văn hóa, là linh hồn của mỗi địa phương. Hành chánh địa phương: (Cơ thể địa phương) cơ quan công quyền địa phương. Hội đồng xã, xã trưởng, phó xã trưởng, các tiểu ban: y tế, giáo dục, an ninh, trật tự… tổ chức và điều động đời sống cho muôn dân.
    Từ sau 30/04/1975, CSVN nắm giữ toàn bộ guồng máy hành chánh Việt Nam từ trung ương tới địa phương. Riêng linh hồn của đia phương, nói theo kiểu Võ Văn Kiệt “bên cạnh một triệu người vui có một triệu người buồn”. Lòng dân ly tán. Vì vậy, nhằm làm biến mất một triệu nỗi buồn kia CSVN đã chiếm giữ linh hồn của địa phương bằng cách xâm thực phương ngữ, đặc biệt là phương ngữ miền Nam Việt Nam. Xin nhấn mạnh phương ngữ là linh hồn của văn hóa địa phương. Như vậy 30/4/1975 CSVN chiếm giữ cơ thể (hành chánh) Việt Nam.

    Ngày nay bằng hành động xâm thực phương ngữ Việt Nam, CSVN đang chiếm giữ linh hồn Việt Nam. Do đó, CSVN đã thực hiện được tham vọng chiếm giữ cả cơ thể lẫn linh hồn Việt Nam. Sự thể này dẫn đến hệ quả đời sống tình cảm của người Việt Nam: tình yêu con cái đối với cha mẹ , tình bằng hữu, tình yêu nam nữ, yêu quê hương, yêu bờ cây bụi cỏ, yêu địa phương, yêu tổ quốc đều bị triệt để bôi trắng… Sau một loạt bôi trắng kia cộng với giáo dục nhồi sọ, trong tâm khảm của mỗi người dân Việt Nam sống dưới chế độ Cộng Sản chỉ còn lại một loại tình yêu đơn độc đến lạ lùng: yêu tổ quốc tức yêu xã hội chủ nghĩa. Nói ngắn và gọn toàn dân chỉ có một nghĩa vụ duy nhất phải tuân hành: yêu đảng và trung với đảng.

 

Người Việt Nam Nghĩ Gì Và Làm Gì Trước Đại Họa Xâm Thực Ngôn Ngữ Địa Phương
Xin được nhắc lại: Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đã long trọng minh định: “Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, gìn giữ bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình”. Rõ ràng Hà Nội thừa biết hành động xâm thực ngôn ngữ địa phương của miền Nam Việt Nam là một việc làm trái với xu thế sống bình thường của loài người. Hành động vừa kể của chế độ Hà Nội đã thực sự chống lại điều 1 của Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền ngày 10 tháng 12 năm 1948: “Mọi người sinh ra đều tự do và bình đẳng”. Mọi người bao hàm cá nhân và pháp nhân tư nhân (gia đình, làng xã, địa phương). Bình đẳng có nghĩa là mọi người đều được tôn trọng như nhau. Mỗi người là một nguyên. Nguyên là đầu, là trước tiên: nguyên thủ quốc gia, tết nguyên đán (ngày đầu năm), nguyên nguyệt (tháng giêng)… Mọi người đều là nguyên, đều có quyền bình đẳng. Dân số hàng triệu người là hàng triệu nguyên. Vì vậy xã hội ắt phải đa nguyên. Làm sao lý tưởng đa nguyên được thực thi? Hãy tìm giải đáp cho câu hỏi vừa nêu bằng cách khảo sát đời sống của một gia đình. Gia đình phụ hệ: mọi quyết định về quyền lợi của gia đình đều nằm trong tay người cha. Nếu tổ chức gia đình được hình dung như một kim tự tháp thì người cha ngự trên đỉnh kim tự tháp, mẹ và con cái an phận nằm ở đáy kim tự tháp. Trong gia đình kim tự tháp, đời sống tự giác của mẹ và con cái của mẹ đều bị triệt tiêu.
    Theo đà phát triển của nhân văn, gia đình kim tự tháp đang nhanh chóng chuyển đổi thành gia đình hạch tâm (nuclear family). Hạch tâm còn gọi là nguyên tử vật chất. Hạch tâm gồm các điện tử âm, điện tử dương và trung hòa tử xoay quanh nhân nguyên tử theo một trật tự bền bỉ, không lãnh tụ, mỗi điện tử di chuyển trên quỹ đạo riêng, không lấn át lẫn nhau. Tương tự như vậy, trong gia đình hạch tâm: Cha, mẹ, con cái mỗi người là một cơ phận của gia đình, mỗi người là một nguyên. Mọi quyết định của gia đình đều lấy quyền lợi chung của gia đình làm chuẩn mực duy nhất trong việc dẫn đạo gia đình. Điều này giải thích lý do tại sao gia đình hạch tâm không có gia trưởng nhưng vẫn bình ổn.
    Bây giờ, chúng ta hãy phóng chiếu mô thức gia đình hạch tâm lên địa bàn quốc gia để có được sự chuyển đổi từ hành chánh kim tự tháp lên hành chánh hạch tâm. Xã hội hạch tâm chính là môi trường thích nghi trong việc tạo điều kiện để mỗi địa phương là một nguyên của quốc gia đa nguyên. Trong quốc gia đa nguyên, tất cả văn hóa địa phương (ngôn ngữ địa phương là linh hồn) đều được tự do vận động và phát triển, không có vấn đề ngôn ngữ đảng xâm thực ngôn ngữ địa phương.
    Câu hỏi kế tiếp: Tất cả ngôn ngữ địa phương đều được tư do vận động và phát triển, như vậy, đâu là con đường tiến đến thống nhất ngôn ngữ Việt Nam? Thưa rằng Bạn hãy hình dung ngôn ngữ như một guồng máy, mỗi ngôn ngữ địa phương là một cơ phận của guồng máy ngôn ngữ kia. Những giao dịch trong guồng máy vừa kể đã đãi lọc các loại phương ngữ của quốc gia để cuối cùng sản sinh ra ngôn ngữ Việt Nam thống nhất. Cứ như vậy, phương ngữ tiếp tục giao thoa, tiếp tục đãi lọc lẫn nhau và tiếng Việt tiếp tục thống nhất trong sinh sinh hóa hóa. Đây chính là chân ý nghĩa của sinh ngữ trong ngôn ngữ.
    Thống nhất ngôn ngữ phải là kết quả của quá trình đãi lọc các phương ngữ trên căn bản tôn trọng tính sinh ngữ của ngôn ngữ. Quan điểm này là sự phản kháng mạnh mẽ mọi hành động thống nhất ngôn ngữ bằng cách dùng “ngôn ngữ đảng” để xâm thực những phương ngữ khác trên toàn Việt Nam. Ngôn ngữ là linh hồn của văn hóa. Thống nhất ngôn ngữ nhưng vẫn bảo vệ được tính sinh ngữ của ngôn ngữ là phương pháp khoa học và thích nghi nhất trong công việc vừa xây dựng ngôn ngữ chung vừa giúp cho văn hóa liên tục phát triển trong phong phú, thông minh và sáng tạo.
    Quần chúng sản sinh ra văn hóa. Văn hóa địa phương là cỗi gốc của văn hóa quốc gia. Văn hóa từ đảng ban bố xuống địa phương thông qua “đảng ngữ” là văn hóa phản xu thế sống, phản nhân văn.
    Câu chuyện “đảng ngữ” xâm thực phương ngữ Việt Nam với hậu ý “đảng hóa văn hóa Viêt Nam” đã mở ra trong tâm trí người Việt hải ngoại nghĩa vụ phục hoạt văn hóa truyền thống của Tổ Tiên Việt.
    Phục hoạt văn hóa Việt theo chỉ hướng nào? Thưa rằng: tất cả những gì phục vụ đời sống của con người, những gì thuận theo lòng người đều hàm chứa trong văn hóa Việt. Điều này đã giải thích tại sao nhạc vàng của miền Nam Việt Nam trước
1975 vẫn lừng lững phục sinh mặc cho mọi nỗ lực triệt để ngăn cấm của CSVN.
    Xin được nhấn mạnh: ngay sau 30/04/1975 người Việt hải ngoại trên bước đường ly hương đã mang theo văn hóa Việt, đặc biệt là mang theo nhạc vàng. Sau thời gian ổn định đời sống trên đất khách, người Việt hải ngoại không ngừng tiếp tục sáng tác và phổ biến nhạc vàng, xem nhạc vàng như những bài kinh nhật tụng gói ghém tấm lòng thương nhớ đồng bào, thương nhớ quê hương… Khi tâm tình của nhạc vàng lên tới đỉnh điểm, khi nhạc vàng lan tỏa về tới Việt Nam theo tâm lý “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”, nhạc vàng trở thành gạch nối lớn, gạch nối chặt chẽ giữa người Việt trong và ngoài nước. Từ đó nhạc vàng hiên ngang hồi sinh ngay trên quê Mẹ Việt Nam, bất chấp sự cấm cản nghiêm khắc của nhà cầm quyền Hà Nội.
    Nương vào phương cách phục hoạt của nhạc vàng, người Việt hải ngoại hãy
thân mến ngồi xuống bên nhau, cùng nhau thảo luận về văn hóa truyền thống Việt. Nền tảng của văn hóa truyền thống Việt là ca dao, tục ngữ, truyện cổ tích dân gian… Trực tiếp ngắm nhìn dòng sống Việt, khảo cứu kho tàng văn chương bình dân, các tác giả Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Lý Đông A và nhiều nhà tư tưởng khác… đã hệ thống hóa, chi tiết hóa kho tàng văn chương kia để xây dựng thành tư tưởng truyền thống văn hóa Việt. Mang văn hóa này phổ vào bốn viên ngọc quý: văn, thi, nhạc, họa. Từ bốn viên ngọc vừa kể, văn hóa Việt Nam hải ngoại sẽ tràn về quê hương Việt một cách êm ái nhưng mạnh mẽ và rộng khắp.
    Đi theo văn hóa truyền thống được phục hoạt, tự do dân chủ sẽ đến với Việt

Nam chậm rãi nhưng vững vàng đúng như hình ảnh nhạc vàng đã bừng bừng sống lại trên toàn cõi Quê Hương Việt.

Đỗ Thái Nhiên

Phương ngữ miền Nam Việt Nam đang tiếp tục bị ‘xâm thực’?

 

Bảng hiệu giao thông

NGUYỄN THANH LỢI Ảnh chụp ngày 1/3 tại Sài Gòn.

BBC

Từ cuộc tranh luận liên quan đến cách gọi ‘Ga tàu thủy Bạch Đằng’, nhiều câu hỏi đã được đặt ra xung quanh một vấn đề lớn hơn: sự áp đặt ngôn ngữ làm mờ dần đặc trưng phương ngữ miền Nam.

Dù rằng “ga tàu thủy” không hẳn là một từ miền Bắc, nhưng vấn đề phương ngữ vẫn trở thành một chủ đề tranh luận sôi nổi. Trong đó, không ít ý kiến cho rằng phương ngữ Hà Nội, phương ngữ miền Bắc, với lợi thế của truyền thông, của bộ máy nhà nước, đang “phủ sóng” ngày một rộng tại miền Nam, lấn át cách dùng từ truyền thống của người miền Nam.

Biểu hiện rõ nhất của việc này là các bảng chỉ đường, các cách viết trên báo chí, sách giáo khoa.

Một người dùng Facebook có tên Han Phan bình luận trên trang cá nhân:

“Xúm nhau chửi vụ ‘Ga tàu thủy Bạch Đằng’, tôi nghĩ các bạn cũng nên thử suy xét sâu xa hơn một chút, tại sao họ muốn làm điều đó? Như cách họ thay biển báo giao thông khắp miền Nam từ ‘bùng binh’, ‘vòng xoay’ thành ‘vòng xuyến’; ‘giao lộ’, ‘ngã 4 – ngã 5’ thành ‘nút giao’ kiểu ngoài Bắc. Mặc nhiên chọn tiếng Bắc thành ‘quốc ngữ’, mỗi ngày đều tìm cách triệt phá sự đa dạng của phương ngữ vùng khác, nhất là ngôn ngữ cũ của Miền Nam trên mọi phương diện đọc, viết, đặc biệt là sách giáo khoa.”

Và người này đặt ra câu hỏi: “Trong khi nhiều tổ chức quốc tế người ta còn tìm cách cứu lấy ‘tử ngữ’, giữ gìn sự đa dạng ngôn ngữ của các quốc gia nhỏ, sắc tộc thiểu số,… để giữ gìn đa dạng văn hóa, bản sắc, giữ gìn một thế giới phong phú… Thì tại sao giáo dục của ta, bộ máy tuyên truyền và kiểm duyệt của ta luôn nỗ lực hướng đến sự rập khuôn, đồng hóa?”

Ví dụ nhiều đến mức ‘không kể nổi đâu’

Nhà báo Cù Mai Công, nguyên thư ký tòa soạn báo Tuổi Trẻ, một cây bút viết sách về Sài Gòn xưa, nói với BBC News Tiếng Việt rằng nếu kể về những ví dụ ngôn ngữ miền Bắc tràn vào miền Nam thì “nhiều lắm, kể không nổi đâu và cũng không cần kể vì ai cũng thấy, cũng nghe ra rả hằng ngày”.

Ông nêu những ví dụ như ‘sử dụng’ (dùng, xài), ‘rẽ’ (quẹo), ‘ô tô’ (xe hơi), ‘phố’ trên các bảng hiệu, bảng tên hiện nay cho đến chống dịch Covid chính thức của Việt Nam như ‘đi từng ngõ, gõ từng nhà’.

Nhà báo Cù Mai Công đánh giá, “Ngôn ngữ văn bản hiện nay thì khỏi nói rồi, tràn ngập gốc Hán Việt như ‘nỗ lực, đối tượng, phương tiện’… rất khó đọc.”

“Vậy nên mới đẻ ra chuyện gọi ‘phương tiện’ thay ‘xe cộ‘, ‘đối tượng’ (vốn chỉ một tập thể) thành ‘đối tượng Nguyễn Văn A’, ‘điều khiển phương tiện giao thông’ thay cho cầm lái, ‘cá thể’ (rùa chẳng hạn) thay cho con rùa…”

Có thể thấy ‘đối tượng’, ‘phương tiện’… là những từ vựng hiện được sử dụng rất thường xuyên trong các bản tin an toàn giao thông, an ninh trật tự trên nhiều báo đài ở Việt Nam hiện nay.

“Đó không phải là văn phong, cách viết báo chí,” nhà báo Cù Mai Công đánh giá.

Chia sẻ những hình ảnh các bảng chỉ đường dùng các cách gọi ‘nút giao’, ‘vòng xuyến’ lạ lẫm với người Sài Gòn, nhà nghiên cứu Nguyễn Thanh Lợi nói rằng từ “bùng binh” là chính xác nhất và đã được dùng từ trước 1975.

Sau đó, những năm gần đây đã xuất hiện tranh cãi ở Việt Nam liên quan đến ‘nút giao’, ‘vòng xoay’, ‘vòng xuyến’ để thay cho từ ‘bùng binh’, ông cho rằng ‘nút giao’ là từ tạm chấp nhận được trong số những từ được đề xuất. Tuy nhiên, từ ‘nút giao/vòng xoay công trường’, theo ông là không hợp lý vì bản thân ‘công trường’ đã mang nội hàm là một tiểu đảo, xe cộ di chuyển xung quanh, thêm từ “nút giao” là thừa.

Về ‘tàu bay’, theo ông Lợi, đây là phương ngữ Bắc Bộ, ở miền Nam, người dân quen gọi là ‘máy bay’ hay ‘phi cơ’ hơn.

Nguyên nhân một phần từ giáo dục?

Bé Bảo Hân và sách giáo khoa

GIA ĐÌNH CUNG CẤP Bé Bảo Hân, học sinh lớp bốn tại Đà Nẵng, bên sách giáo khoa Tiếng Việt

Phụ huynh em Bảo Hân, một học sinh lớp bốn tại Đà Nẵng, chia sẻ cho BBC News Tiếng Việt về sách giáo khoa Tiếng Việt.

Từ ngữ được xài thống nhất gồm nhiều từ gốc Bắc, như ‘bố’ thay cho ‘ba’ như trong bài tập đọc ‘Người thầy đầu tiên của bố tôi’.

Vì gia đình là gốc Bắc nên vị phụ huynh này cũng không có ý kiến gì thêm.

Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định:

“Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình”.

Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 quy định: “Ngôn ngữ trong văn bản quy phạm pháp luật là tiếng Việt”.

Luật Giáo dục 2019 quy định: “Tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức dùng trong cơ sở giáo dục”.

Từ TP HCM, nhà nghiên cứu văn hóa Nguyễn Thanh Lợi, tác giả của một số sách về văn hóa Nam Bộ như ‘Sài Gòn đất và người’, ‘Ghe bầu Nam Trung Bộ và ghe xuồng Nam Bộ’… cho rằng phương tiện truyền thông, giáo dục “đã gia tăng áp lực lên việc sử dụng ngôn ngữ toàn dân ở miền Bắc lên thói quen sử dụng ngôn ngữ ở miền Nam”.

“Các nhà soạn sách giáo khoa thường dùng ngôn ngữ miền Bắc để gọi tên các sự vật, hiện tượng ở miền Nam như: mãng cầu (na), đậu phộng (lạc), đậu (đỗ), heo (lợn), kiếng (gương), chén (bát), ly (cốc), muỗng (thìa), dĩa (đĩa), tập (vở), giỏ (làn)… Trẻ học cấp một làm sao phân biệt được ‘cọng’ giá với ‘giá đỗ’, hay rất xa lạ với ‘đỗ xanh’ (đậu xanh)… Rồi sách giáo khoa thì viết là ‘vâng’ nhưng về đến nhà lại dùng từ ‘dạ’.”

“Nếu không chú trọng giáo dục ngôn ngữ địa phương, thì viễn cảnh đến ngày nào đó, học sinh không thể đọc hiểu các tác phẩm của những nhà văn giàu chất Nam Bộ như Hồ Biểu Chánh, Sơn Nam, Nguyễn Ngọc Tư… là không xa. Chúng sẽ trở nên ‘xa lạ’ ngay chính trên quê hương bản quán, trong không gian văn hóa của mình vì đã bị đánh mất ngôn ngữ bản địa,” nhà nghiên cứu văn hóa Nguyễn Thanh Lợi nói với BBC News Tiếng Việt.

‘Ga tàu thủy Bạch Đằng’ và sự áp đặt ngôn từ

Sau khi vấp phải phản ứng dư luận, dòng chữ "ga tàu thủy" đã được dỡ bỏ, dự kiến sẽ được thay bằng "bến tàu" Bạch Đằng

NGUYỄN KIM TOẢN Sau khi vấp phải phản ứng dư luận, dòng chữ “ga tàu thủy” đã được dỡ bỏ, dự kiến sẽ được thay bằng “bến tàu” Bạch Đằng

Nhạc sĩ Tuấn Khanh

Gửi cho BBC News Tiếng Việt

 

Dòng chữ ‘Ga tàu thủy’ xuất hiện ngay trung tâm Sài Gòn đã làm dậy lên tranh luận trên mạng xã hội. Từ Sài Gòn, nhạc sĩ Tuấn Khanh gửi cho BBC News Tiếng Việt những suy ngẫm của ông về hiện tượng sử dụng ngôn ngữ lạ lẫm này.

Từ bài viết của tác giả Nguyễn Gia Việt trên mạng Facebook, càng xót xa trước hình ảnh “ga tàu thủy” ở bến Bạch Đằng.

Trong suốt mấy ngày, sự bất bình của người Sài Gòn nói chung – hay nói đúng hơn là của người miền Nam ngày càng dậy lên về một cảm giác mất mát, xa lạ với những điều như đang áp đặt trong đời sống qua nhiều thập niên.

Ga tàu thủy, là sản phẩm của công ty Saigon Waterbus nằm trên bến Bạch Đằng, có từ tháng 3 năm 2022. Đây vốn là nơi vãn cảnh, qua lại của người Sài Gòn từ suốt nhiều năm, cho đến cho đến một ngày xuất hiện cách gọi tên lạ lùng này.

“Ga tàu thủy” đột nhiên trở nên ngày càng “chướng mắt” hơn với những người miền Nam vốn đang lo ngại làn sóng ngôn từ, phong cách và cả tư duy khác biệt đang dần xuất hiện ở mọi nơi, có khả năng biến một vùng đất có bản sắc hết sức riêng trở nên nhạt nhòa dần.

Dòng chữ "ga tàu thủy" vừa được hạ xuống

NGUYỄN KIM TOẢN Dòng chữ “ga tàu thủy” vừa được hạ xuống

Bến Bạch Đằng hay đường Tự Do, cầu Công Lý, bùng binh cây liễu Sài Gòn, thương xá Tax… là những nơi đã ăn sâu vào tâm khảm con người sống ở vùng đất này từ hơn nửa thế kỷ. Tất cả những địa danh đó gắn liền với nhiều thế hệ sống ở đây, lẫn những người tìm đến mưu sinh, thay đổi cuộc đời mình. Thậm chí trong di sản văn hóa riêng của thời Việt Nam Cộng Hòa, văn chương, âm nhạc… cũng được nhắc tên một cách đầy thương nhớ.

Vùng đất này có sự tự hào của tầng lớp cư dân của nó, như người Đà Nẵng nói về sông Hàn, như người Hà Nội nói về 36 phố phường của mình.

Nhưng riêng người Sài Gòn thì chứng kiến những đổi thay chóng mặt: như xóa tên, chặt bỏ cây xanh cho dự án… và những lời phản đối của người dân đều chìm trong các quyết sách đanh thép. Thậm chí, thỉnh thoảng người ta còn được nhìn thấy sự mạo danh trong thành ngữ mới, quen thuộc như “được sự đồng ý của đông đảo quần chúng nhân dân”.

Nhưng những thay đổi đến trước, gây ngỡ ngàng trước, là ngôn từ.

Vài năm trước, nhiều người Sài Gòn từng một phen ngỡ ngàng trước những tấm bảng chỉ đường đề “vòng xuyến” thay cho “vòng xoay” hay “bùng binh”.

Một người nói trên báo Tuổi Trẻ: “Tôi sống ở Sài Gòn từ những năm 1960 đến nay, cũng quen gọi bùng binh, nghe vòng xuyến thấy nó kỳ kỳ!”

Nhiều năm trước, trong một lần ra chợ, cô bán hàng trẻ có giọng Nam, khi tính tiền đã nói với tôi bằng đơn vị “nghìn”. Tôi ngạc nhiên hỏi cô quê ở đâu, thì được cho biết là ở Long An. “Sao em không nói ‘ngàn’, đó mới là tiếng miền Nam chứ?”, tôi hỏi. Cô gái bối rối và nói do bị quen miệng thôi.

Miền Nam từ sau năm 1975 tràn ngập trên truyền hình, báo chí những ngôn từ được “thống nhất”, theo ý chí của những người đứng đầu các cơ quan đó, vốn thiếu ý thức về bản sắc địa phương và lòng tự trọng của người sống trên vùng đất đó.

Bảng tên ở Bến Bạch Đằng đang chờ được điều chỉnh

NGUYỄN KIM TOẢN Bảng tên ở Bến Bạch Đằng đang chờ được điều chỉnh

Nhà văn Nguyễn Đình Bổn có nói về lòng tự trọng của những người làm ăn, có quyền chức… ở miền Nam và cũng có thể là người miền Nam gốc, nhưng chỉ thích chạy theo những ngôn từ, trào lưu mới mà không hiểu mình đã đánh mất bản sắc như thế nào

Đúng là cái tệ hại hơn hết là của những người là cư dân lâu đời ở miền Nam mà đánh mất lòng tự trọng riêng về bản chất, là học đòi theo cách “thống nhất” ngôn ngữ, mà coi là tự làm mới mình.

Một trong những tai hại của vấn đề “thống nhất” ngôn ngữ, đè bẹp địa phương tính, có thể tìm thấy ngay trên hệ thống Google.

Khi dùng tính năng voice to text, những tính từ và danh từ riêng của miền Nam hầu như luôn bị nhận dạng sai, do dữ liệu nguồn ban đầu không có. Trong nhiều năm, người miền Nam phải lặng lẽ nói, sửa để tạo nguồn bổ sung trên hệ thống này để giảm bớt sự “kỳ thị” của dữ liệu tin học.

Và sự thống nhất ngôn ngữ cũng dẫn đến những thắc mắc đơn giản như, vì sao tiếng Việt Google chỉ có duy nhất giọng Bắc?

Người Sài Gòn gọi đường chứ không gọi phố, gọi hẻm chứ không gọi ngõ

CIAO HO Người Sài Gòn gọi đường chứ không gọi phố, gọi hẻm chứ không gọi ngõ

Thật ra, sự khó chịu về “ga tàu thủy” chỉ là một trong những cột mốc xung đột về khác biệt văn hóa lâu nay. Từ giữa những năm 1990, người Việt hải ngoại đã có hẳn một phong trào hạn chế sử dụng những ngôn ngữ mới trong nước, vốn được in vào cả sách giáo khoa chung cả nước. Ngôn ngữ bị choàng vào nó các nhận định chính trị, những xáo trộn của đời sống và văn hóa.

Một lần trong quán cà phê tại Little Saigon, California, Mỹ, tôi và những người bạn đã chứng kiến tất cả ánh mắt lạ lùng trong quán, xoay qua nhìn một chú lớn tuổi – nhìn cách ăn mặc có vẻ như là một cán bộ mới sang định cư và hội nhập – khi chú kêu lên “này em, thanh toán”.

Thật sự khác biệt! Nếu không nói là một “cú sốc” nơi vùng đất mà ngôn từ miền Nam được giữ chặt. Bởi lẽ thường, ở đó, người ta vẫn hay nói “cho tính tiền” – và “cho”, giống như “please” của dân bản xứ. Không có thống kê nào cụ thể về sự thất lạc, phai nhạt của ngôn từ bản sắc miền Nam trong những năm qua.

Trong đại dịch, khi bí thư Nguyễn Văn Nên nói “xin người dân lượng thứ”, đã có vô số người miền Nam bùi ngùi, vì ít nhất là qua muôn trùng vây hãm, sống chết, cũng an ủi được một chút khi nghe chữ quen thuộc, ấm áp của vùng đất mình: “lượng thứ”, có thể nói nhiều năm lắm rồi, mới nghe lại được trên hệ thống truyền thông.

Từ năm 2000, truyền hình quốc gia VTV nghiên cứu về việc không hiểu sao giờ thời sự chính, người miền Tây không ai coi. Kết quả của thăm dò cho thấy những cụ ông, cụ bà – khán giả trung thành với truyền hình – thường chuyển kênh, vì “họ nói khó nghe quá, như tiếng ngoài”.

Về sau, VTV tuyển hẳn một nữ phát thanh viên nói giọng Nam, xen kẽ trong các giờ thời sự. Tình hình có vẻ cải thiện được một thời gian nhưng rồi đâu lại vào đó. Vấn đề chính, là những từ ngữ mới, không quen khiến không thu hút được.

Việc điều chỉnh bảng tên sẽ được thực hiện tại tất cả các bến trên dọc tuyến như Thủ Thiêm, Bình An, Hiệp Bình Chánh...

NGUYỄN KIM TOẢN Việc điều chỉnh bảng tên sẽ được thực hiện tại tất cả các bến trên dọc tuyến như Thủ Thiêm, Bình An, Hiệp Bình Chánh…

Trong làn sóng chỉ trích, người sống ở miền Bắc cũng nhận ra điều quái dị trong tên gọi “ga tàu thủy”, như nhà văn Thái Hạo và xác định là cách “bịa” ra từ ngữ, chứ không phải là vấn đề Bắc – Nam.

Nhưng đáng buồn, “bịa” ra từ ngữ như đang trở thành khuynh hướng ở mọi giai tầng, bất chấp sự ngớ ngẩn của ý nghĩa. Rất nhiều người Việt của cả mọi miền đã cười mỉm khi nghe những câu như “sai phạm nhưng không vụ lợi”, “nâng đỡ không trong sáng”.

Rõ là trên mặt bằng “thống nhất ngôn ngữ”, tiếng Việt của cha ông đang bị thao túng, lạm dụng với tầm hủy hoại, thì thử hỏi, ngôn ngữ bản sắc địa phương nhạt nhòa, có gì là lạ?

Bài viết thể hiện quan điểm và văn phong của tác giả Tuấn Khanh, một nhạc sĩ, người viết tự do tại Sài Gòn.