Chính quyền Bắc Kinh ngang nhiên đòi hỏi quyền lịch sử đối với 80%-90% diện tích Biển Đông và khẳng định Bãi Tư Chính thuộc chủ quyền của Trung cộng.
Yêu sách của Trung cộng về chủ quyền ở Biển Đông là phi lý.
Những căng thẳng Biển Đông thời gian vừa qua khẳng định chính sách “ngoại giao chiến hạm” ngày một leo thang của chính quyền Trung cộng. Đặc biệt, với hành vi ngang nhiên đưa tàu Hải Dương Địa chất 8 cùng đội tàu hộ tống thuộc Lực lượng Cảnh sát biển nước này đến khảo sát trên diện tích 31.000 km2 ở vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa Việt Nam.
Phía Việt Nam đã nhiều lần giao thiệp, gửi công hàm phản đối hành vi vi phạm của Trung cộng thông qua tất cả các kênh đối ngoại kể cả tuyên bố của người phát ngôn Bộ Ngoại giao. Dư luận quốc tế cũng kịch liệt lên án, phê phán hành động xâm phạm chủ quyền nguy hiểm của Trung cộng.
“Với quyết tâm bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của mình, đóng góp vào hòa bình, ổn định, an ninh khu vực phù hợp với luật pháp quốc tế, Việt Nam luôn sẵn sàng giải quyết các bất đồng bằng biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế. Một lần nữa, Việt Nam đề nghị các quốc gia liên quan và cộng đồng quốc tế đóng góp tích cực, thiết thực vào việc duy trì trật tự, hòa bình, an ninh trong khu vực, an ninh, an toàn tự do hàng hải và hàng không, tôn trọng nguyên tắc thượng tôn pháp luật ở Biển Đông, phù hợp với luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên Hiệp Quốc về luật biển 1982”, bà Lê Thị Thu Hằng phát biểu.
Theo đó, Việt Nam hoàn toàn có chủ quyền và quyền tài phán đối với thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của mình, kể cả khu vực Bãi Tư Chính, căn cứ theo Công ước Luật Biển của Liên Hiệp Quốc năm 1982 (UNCLOS 1982).
Việt Nam cũng có căn cứ vững chắc về pháp lý khẳng định chủ quyền không thể tranh cãi đối với hai quần đảo Hoàng Savà Trường Sa thiêng liêng, có lợi ích chung với cộng đồng quốc tế về gìn giữ hòa bình an ninh khu vực và tự do hàng hải trên Biển Đông.
“Các yêu sách của Trung cộng về chủ quyền ở Biển Đông là “vô căn cứ” bất chấp luật pháp quốc tế, và hành động của họ “vi phạm thô bạo” vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam”, Thanh Niên dẫn bình luận của ông Nguyễn Quý Bình, Giảng viên Đại Học Hà Nội, nguyên Vụ trưởng Vụ Luật pháp Quốc tế, Bộ Ngoại giao, nguyên Đại sứ Việt Nam bên cạnh LHQ ở Geneva, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới quốc gia, nguyên trọng tài viên của Tòa trọng tài quốc tế PCA tại La Haye phát biểu.
Theo ông Bình, hành động đưa nhóm tàu khảo sát Hải Dương Địa chất 8 vào khu vực Bãi Tư Chính là “coi thường luật pháp quốc tế, biến khu vực thuộc chủ quyền của nước khác – nơi “không có tranh chấp” trở thành “khu vực tranh chấp”, vi phạm các thỏa thuận cấp cao giữa hai nước, đe dọa hòa bình, ổn định và an ninh khu vực”.
Với đường 9 đoạn, Trung cộng đòi 80-90% diện tích Biển Đông
Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung cộng mới đây khẳng định: Vùng biển nơi các tàu nước này hoạt động thuộc chủ quyền của Trung cộng. Việc Bắc Kinh đòi hỏi chủ quyền đối với khu vực Bãi Tư chính, theo ông Nguyễn Quý Bình, xuất phát từ cái gọi là “quyền lịch sử” ở Biển Đông theo “đường 9 đoạn” cùng với yêu sách chủ quyền phi lý với toàn bộ quần đảo Trường Sa.
Điều đáng nói ở đây là, phía Trung cộng không thể nêu ra được căn cứ pháp lý của “đường 9 đoạn” là gì, hay cơ sở nào để xác định?
Đặc biệt, chính quyền Bắc Kinh ngang nhiên đòi hỏi quyền lịch sử đối với 80%-90% diện tích Biển Đông từ bản đồ đường 9 đoạn nêu trên.
Theo ông Bình: “Trước năm 2009, Trung cộng chưa chính thức nêu yêu sách về “đường 9 đoạn”, họ chỉ vẽ “đường 9 đoạn” và không giải thích tính chất pháp lý. Từ 2009, sau khi Trung cộng chính thức nêu yêu sách về “đường 9 đoạn”, tất cả các nước liên quan ở Biển Đông đều đã chính thức phản đối. Thực tế, các chuyên gia pháp lý quốc tế và nhiều quốc gia liên quan đều nhận định Trung cộng không có cơ sở pháp lý hoặc chứng cứ xác đáng để đòi hỏi chủ quyền với vùng nước trong phạm vi “đường 9 đoạn” cũng như với toàn bộ các đảo ở Biển Đông. Mọi phân tích đều khẳng định “đường 9 đoạn” không thể biện hộ cho đòi hỏi của họ về “chủ quyền lịch sử” ở Biển Đông vì nó vượt ra ngoài khuôn khổ của luật pháp quốc tế, bao gồm cả UNCLOS 1982”.
Trong vụ Phi Luật Tân kiện Trung cộng, phán quyết đưa ra ngày 12.7.2016, Tòa trọng tài quốc tế cũng đã lên tiếng bác bỏ cơ sở pháp lý của “quyền lịch sử” mà Trung cộng đòi hỏi theo “đường 9 đoạn”.
Theo đó, tòa đưa ra nhiều luận cứ xác đáng. Thứ nhất, chủ quyền lịch sử đối với tài nguyên biển trên vùng đặc quyền kinh tế thuộc EEZ đã được Hội nghị luật biển xem xét kỹ lưỡng nhưng không được chấp thuận trong UNCLOS- chỉ có quyền đánh cá truyền thống được thừa nhận ở mức độ hẹp đối với một số vùng vịnh và cgir trong trường hợp ven biển không đánh bắt hết- quyền lịch sử đối với tài nguyên khác như dầu khí, khoáng sản thì hoàn toàn bị bác bỏ trong công ước.
Điều thứ hai mà Tòa trọng tài quốc tế chỉ ra chính la, các bằng chứng về quyền lịch sử của Trung cộng ở Biển Đông như “phát hiện”, “đánh cá”, “khai thác” từ xa xưa chỉ là các hoạt động khai thác thực hiện ở vùng biển quốc tế trước đây, khi toàn bộ Biển Đông bên ngoài phạm vi lãnh hải là vùng biển quốc tế và các nước đều được tự do khai thác. Tuy nhiên, cần phải nhớ rằng, các quyền lịch sử này đương nhiên mất đi khi UNCLOS có hiệu lực.
Bằng chứng mà Trung cộng đưa ra cũng giống như các hoạt động khai thác mà Nhật và các nước khác đã làm trong quá khứ. Phía Bắc Kinh không hề còn bất cứ bằng chứng lịch sử nào để xác định chủ quyền và quyền kiểm soát độc tôn của mình trên Biển Đông cũng như ngăn không cho các quốc gia khác tiến hành nhiều hoạt động khai thác.
Trên những luận điểm chắc chắn này, Tòa trọng tài quốc tế đã kết luận Trung cộng không có cơ sở pháp lý để đòi hỏi “quyền lịch sử” đối với các tài nguyên nằm trong phạm vi đường 9 đoạn, ngoại trừ các quyền được công ước thừa nhận.
Trung cộng khẳng định có chủ quyền với Bãi Tư Chính
Trung cộng đã liên tục xuyên tạc rằng Bãi Tư Chính là “một phần của quần đảo Nam Sa và vùng biển liên quan” thuộc chủ quyền nước này. Năm 1992, Bắc Kinh ngang ngược ký hợp đồng thăm dò và khai thác dầu khi trên Bãi Tư Chính của Việt Nam với 1 công ty tư nhân Crestone của Hoa Kỳ. Hợp đồng phi pháp này đã bị phía Việt Nam và Bộ ngoại giao Mỹ phản đối. Đài ABS-CBN trích lời ông Antonio Carprio, Phó chánh án Tòa án tối cao Phi Luật Tân, mới đây đã phát biểu rằng việc Bắc Kinh tuyên truyền Biển Đông thuộc về Trung cộng là “tin giả của thế kỷ”, “lời nói dối lịch sử” và “nếu họ lặp đi lặp lại luận điệu sai trái này mà chúng ta không bác bỏ sẽ có người nghĩ đây là sự thật”.
Trong khi đó, theo ông Nguyễn Quý Bình chính quyền Bắc Kinh lại luôn cố tình mập mờ coi các đảo đá và bãi ngầm ở Trường sa là một thực thể thống nhất, có quyền được hưởng quy chế EEZ và thềm lục địa 200 hải lý như lãnh thổ đất liền theo UNCLOS. Tuy nhiên, điều 121 của công ước đã quy định “Những đảo đá không thích hợp cho con người định cư hoặc không có một đời sống kinh tế riêng thì không có vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa”. Không những thế, Tòa trọng tài cũng đã chính thức công bố phán quyết có ý nghĩa lịch sử liên quan đến quy chế pháp lý của các đảo và bãi ngầm ở Trường Sa. Lần đầu tiên kể từ khi có Công ước luật Biển, một cơ quan tài phán quốc tế đã đưa ra phán quyết về áp dụng và giải thích điều 121 của công ước, đặc biệt liên quan đến các tranh chấp phức tạp và nhạy cảm ở Biển Đông.
Chuyên gia Đức: Trung cộng muốn thử phản ứng các nước về Biển Đông
Theo TS. Gehard Will– chuyên gia về Biển Đông, Quỹ Khoa học và Chính trị Đức (SWP) đã chia sẻ quan điểm về việc Trung cộng điều nhóm tàu khảo sát Hải Dương Địa chất xâm phạm cùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.
“Trong những tuần qua, Trung cộng đã có thêm các hành vi vi phạm tại Biển Đông để củng cố yêu sách của họ. Đúng là những năm trước đây, Trung cộng đã xây dựng những tiền đồn thông qua việc xây dựng đảo nhân tạo và bây giờ người ta biết thêm rằng, Trung cộng muốn thực hiện yêu sách chủ quyền của mình bằng biện pháp quân sự. Tôi tin rằng, đó là một nấc leo thang mới. Tàu thăm dò địa chất của Trung cộng hoạt động trong vùng biển rõ ràng thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam và dĩ nhiên là ở gần bờ biển Việt Nam nhiều hơn Trung cộng”, VOV dẫn lời ông Gehard Will nhận định.
TS. Gehard Will nhận xét hành động này của Trung cộng “nhằm thử phản ứng” của các quốc gia trên thế giới:
“Trung cộng ở đây luôn muốn thử xem phía khác sẽ phản ứng như thế nào. Do đó, phải nhìn nhận những nỗ lực này là một phép thử xem Trung cộng sẽ đi xa được tới đâu và người ta có thể tạo ra ranh giới cho Trung cộng tới mức nào. Một điều quan trọng trong tình huống này là cần phải chỉ cho cộng đồng quốc tế thấy được câu chuyện đang diễn ra và không chỉ yêu cầu các nước châu Á mà là cả cộng đồng quốc tế lên tiếng”.
Vị chuyên gia về Biển Đông cũng cho rằng việc cả Liên minh châu Âu và sau đó là 3 cường quốc Đức, Pháp, Anh đều đưa ra tuyên bố chung về vấn đề này thực sự là rất hiếm có.
“Theo hiểu biết của tôi, đây là lần đầu có một quyết định ra tuyên bố về Biển Đông như vậy. Trước đây, họ có đề cập đến Biển Đông trong những văn bản chung. Tuy nhiên, việc họ quyết định tuyên bố về nó lại có một chuẩn mực khác. Dĩ nhiên ta có thể nói nó không mới mẻ nhưng việc họ nhấn mạnh một lần nữa rằng, nó không chỉ liên quan tới lợi ích khu vực mà cả lợi ích quốc tế. Việc EU, Đức, Pháp, Anh đặc biệt nhấn mạnh rằng những gì xảy ra trên Biển Đông cũng liên quan tới châu Âu đương nhiên không được Trung cộng hoan nghênh. Trung cộng luôn cho rằng Biển Đông chỉ là vấn đề của họ với các nước láng giềng Đông Nam Á, các nước khác không tìm kiếm gì ở đây, họ cũng không có lợi ích gì ở đây”, ông lý giải.
Nhận định về giá trị và ý nghĩa mà những tuyên bố của các nước trong khối EU đưa ra, TS. Gehard Will khẳng định:
“Tuyên bố của EU và tuyên bố chung của Đức, Pháp, Anh có ý nghĩa đáng kể bởi họ nói rõ ràng rằng, đây không chỉ là vấn đề khu vực mà cả quốc tế. Chúng có liên quan tới lợi ích của chúng tôi và chúng tôi muốn xung đột leo thang trong những ngày này phải được giải quyết theo luật pháp quốc tế – điều mà Trung cộng thường bỏ qua”.
Sputnik (08.09.2019)