Dân quân biển Việt có bao vây căn cứ quân sự Trung cộng?   

VNTB – Dân quân biển Việt có bao vây căn cứ quân sự Trung Quốc?

Một câu chuyện thu hút sự chú ý của những người theo dõi Biển Đông là những cáo buộc của Sáng kiến ​​Chiến lược Tình hình Chiến lược Biển Đông (SCSPI) có trụ sở tại Bắc Kinh khi cho rằng, một nhóm tàu đánh cá Việt Nam tràn vào vùng biển ngoài khơi đảo [của] Trung cộng.

Cáo buộc dựa trên các bộ dữ liệu nhất định về cờ hiệu và địa điểm thu thập từ tín hiệu AIS (Hệ thống nhận dạng tàu thuyền tự động), SCSPI tuyên bố rằng các tàu cá Việt Nam đang đánh bắt cá bất hợp pháp – hoặc thậm chí tiến hành giám sát chặt chẽ căn cứ hải quân chiến lược Ngọc Lâm.

Cáo buộc này rất quan trọng, trong bối cảnh cả hai xem xét hành vi yêu sách Biển Đông của nhau, cũng như sự cần thiết phải tăng tính minh bạch trong lĩnh vực hàng hải nói chung. Nhưng một đánh giá chặt chẽ hơn về những cáo buộc này và bằng chứng được đưa ra cho thấy nhiều câu hỏi hơn câu trả lời.

Trước khi đi sâu vào một số vấn đề cụ thể, điều đáng chú ý là tại sao chiến lược ‘bao vây’ đảo Hải Nam của Việt Nam theo cách như vậy có vẻ khá xa vời. Cụ thể, cáo buộc này không có  ý nghĩa với ít nhất ba lý do.

Đầu tiên, nếu Việt Nam thực sự có một chiến lược nhắm vào đảo Hải Nam sẽ gây lo ngại cho Trung cộng, thì có vẻ như căn cứ Hải quân Ngọc Lâm, nơi chứa các tàu ngầm hạt nhân của Trung cộng đã không được bảo vệ chặt chẽ.  Điều đó dường như khá khó xảy ra đối với những người có kiến ​​thức về khả năng quân sự của Bắc Kinh.

Thứ hai, ngư dân Việt Nam sẽ phải khá liều lĩnh khi bật bộ tiếp sóng của họ trong khi thực hiện đánh bắt cá bất hợp pháp, không báo cáo và không được kiểm soát (IUU) hoặc thực hiện các hoạt động trinh sát. Do đó có thể nói rằng, đây sẽ là một sai lệch giữa tín hiệu với cái chúng ta thường thấy ở Biển Đông.

Thứ ba, nếu các tàu ở đó đánh cá, điều đó sẽ khá phi lý vì khu vực đó nằm gần bờ biển Trung cộng. Trung cộng sở hữu đội tàu đánh cá lớn nhất thế giới, đánh bắt xa bờ, trong khi hải cảnh Trung cộng nổi tiếng hung hăng mà lại có thể ‘nhân đạo’ đến mức cho phép một số lượng lớn tàu cá nước ngoài lảng vảng gần căn cứ hải quân chiến lược của họ trong một thời gian dài?

Từ quan điểm chính sách, điều cuối cùng Việt Nam mong muốn là có thể tạo ra cớ để kẻ yêu sách mạnh mẽ hơn xâm nhập vào vùng biển của mình. Khi được hỏi về điều này, các nguồn có thẩm quyền tại Việt Nam đã bác bỏ hoàn toàn cáo buộc của SCSPI. Các tàu cá của Việt Nam có thể ở gần đảo Hải Nam, nhưng họ tiến hành các hoạt động không trái Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS).

Ở cấp độ chính thức, Hà Nội không có chính sách khuyến khích ngư dân tham gia đánh bắt cá IUU hoặc tiến hành thu thập thông tin tình báo gần vùng biển lãnh thổ của các quốc gia khác. Đúng là Việt Nam có thuyền viên ngư dân được đào tạo thành dân quân biển. Tuy nhiên, ỉangj thái này chỉ được kích hoạt khi cần thiết và chỉ dành cho nhiệm vụ phòng thủ và tìm kiếm và cứu hộ. Ý tưởng sử dụng các tàu đánh cá để theo dõi các hoạt động của tàu ngầm Trung cộng gần căn cứ Ngọc Lâm không có ý nghĩa gì về mặt quân sự.

*Tác giả: Tiến sĩ Đỗ Thanh Hải, thành viên cao cấp tại Viện Biển Đông thuộc Học viện Ngoại giao Việt Nam.

Anh Khoa lược dịch

Nguồn: https://thediplomat.com/2020/03/did-vietnam-militia-really-swarm-a-china-military-base/

VNTB (18.03.2020)

Mỹ sỉ nhục Nam Dương khi ngăn cản thỏa thuận kỹ thuật quân sự với Trung cộng

Bildergebnis für heavy cruiser

© REUTERS / Beawiharta

Áp lực của Mỹ đối với Nam Dương (Indonesia) vẫn tiếp tục, nhưng nước này khó có thể từ bỏ các thỏa thuận với Trung cộng trong lĩnh vực kỹ thuật quân sự. Chuyên gia Viện nghiên cứu phương Đông thuộc VHLKH Nga Alexei Drugov, trong cuộc phỏng vấn với Sputnik, đã bình luận như vậy về tình hình xung quanh việc Nam Dương định mua tàu tuần tra Trung cộng.

Mấy ngày gần đây, Bloomberg đã đưa tin với tham chiếu các nguồn tin ngoại giao nặc danh ở Mỹ rằng Mỹ đe dọa sẽ đưa ra lệnh trừng phạt buộc Nam Dương phải từ bỏ việc mua tàu tuần tra Trung cộng và 11 máy bay chiến đấu SU-35 của Nga. Số tiền giao dịch ước tính với Trung cộng là khoảng 200 triệu đô la, với Nga – 1,2 tỷ đô la.

Vào ngày 16 tháng 3, Dmitry Shugaev, giám đốc Cơ quan hợp tác kỹ thuật-quân sự Liên bang Nga, cho biết trong cuộc phỏng vấn với kênh truyền hình «Rossiya-24» rằng: Nga đã không nhận được lời từ chối chính thức mua SU-35 từ Nam Dương. Ông bày tỏ hy vọng rằng hợp đồng sẽ được thực hiện, đặc biệt là khi Nam Dương đã quan tâm đến việc mua  máy bay chiến đấu của Nga. 

Nam Dương, với tư cách là một cường quốc hàng hải, cũng cần tàu tuần tra của Trung cộng. Hoa Kỳ, đe dọa nó bằng các biện pháp trừng phạt, và đề xuất thay bằng tàu của mình. Ý nghĩa chính sách của Mỹ là gieo rắc bất hòa giữa Trung cộng và Nam Dương, Phó viện trưởng Viện quan hệ quốc tế của Đại học Nam Kinh Zheng Anguang lưu ý trong cuộc phỏng vấn của Sputnik.

Bộ trưởng Quốc phòng Nam Dương Prabowo Subianto đã thỏa thuận việc mua tàu tuần tra Trung cộng trong chuyến thăm Bắc Kinh vào giữa tháng 12 năm ngoái. Chuyến thăm Trung cộng là một trong những chuyến công du nước ngoài đầu tiên của ông sau khi được bổ nhiệm chức vụ này. Trong chuyến thăm, Bộ trưởng nói rằng Nam Dương ưu tiên phát triển quan hệ với Trung cộng. Ông đảm bảo với Bắc Kinh về mong muốn tăng cường quan hệ đối tác song phương trong nhiều lĩnh vực, bao gồm cả quốc phòng và an ninh. 

Trong bối cảnh này, yêu cầu của Mỹ dùng sự đe dọa bằng lệnh trừng phạt đối với Nam Dương, buộc từ bỏ các cuộc đàm phán với Trung cộng về việc mua tàu là tương đương với «sự sỉ nhục quốc gia» của Nam Dương, điều đó rất nguy hiểm khi đối xử với nó như vậy, chuyên gia Alexei Drugov nói. 

«Nam Dương hiện giờ đang ở trong một tình huống rất khó khăn. Tất nhiên, chính phủ Nam Dương sẽ không thực sự muốn trải qua bất kỳ lệnh trừng phạt nào từ  phía Hoa Kỳ. Trong khi đó, người Mỹ đang tạo ra cái gọi là “kho vũ khí chất nổ” trong tâm lý của người Nam Dương, một ngày nào đó nhất thiết sẽ phát nổ. Hoa Kỳ, rõ ràng, không hiểu rõ lắm về tâm lý chính trị của giới lãnh đạo và công chúng Nam Dương . Nam Dương  tự khẳng định bản thân là một trong 20 cường quốc, về lâu dài – một trong những cường quốc trên thế giới cả về dân số và tiềm lực kinh tế. Do đó, khi Hoa Kỳ áp đặt bất kỳ quyết định nào đối với Nam Dương hoặc cản trở hành động của nước này, họ đã đặt ra một tiền lệ rất nguy hiểm cho chính họ».

Người Nam Dương rất lịch sự, rất kiềm chế, không thích thể hiện cảm xúc, nhưng những cảm xúc này đã tích tụ và một khi nào đó sẽ bùng nổ, chuyên gia lưu ý. Ví dụ, khi Trump chuyển Đại sứ quán Hoa Kỳ từ Tel Aviv đến Jerusalem, đã có một sự gia tăng trong tâm trạng chống Mỹ ở Nam Dương mà nước này đã không thấy trong hơn nửa thế kỷ. Hơn nữa, vấn đề Jerusalem là «giọt nước cuối cùng». Đến lúc này, tình cảm chống Mỹ đã chín muồi và tích lũy trong một thời gian dài. Chúng đã từng có, và trong đó liên quan đến chính sách thế giới đơn cực, mà Mỹ đang áp đặt đối với Nam Dương, chuyên gia lưu ý. 

Nam Dương là một nước có chủ quyền, quốc gia độc lập xây dựng quan hệ ngoại giao kinh tế và quan hệ đối ngoại trong lĩnh vực xây dựng quốc phòng. Nam Dương gần đây phải đối mặt với những lời chỉ trích từ Hoa Kỳ và đồng minh chính của khu vực là Úc vì đã sẵn sàng hợp tác với công ty Huawei. Úc thậm chí vào cuối năm ngoái đã cảnh báo rằng điều này sẽ ảnh hưởng đến việc chia sẻ thông tin tình báo với Nam Dương. Trong khi đó, Bộ trưởng truyền thông Nam Dương Johnny G. Plate tuyên bố chính phủ không có ý định cấm hợp tác với Huawei và sẽ chỉ được hướng dẫn bởi lợi ích quốc gia. Rõ ràng, thỏa thuận cuối cùng về tàu tuần tra của Trung cộng cũng sẽ đáp ứng cho lợi ích quốc gia của Nam Dương.

Sputnik (18.03.2020)

ĐM. ĐẠI SỨ QUÁN TRUNG CỘNG TẠI HÀ NỘI

https://1.bp.blogspot.com/-zy9z75J7pWY/XnHw_KfT3QI/AAAAAAABCgo/3YhV4HQzPXwp2ltKq6J_gty0d9EEzxfXACLcBGAsYHQ/s1600/89903534_2255285804774378_4556863793140858880_n.jpg

Ảnh từ trang thông tin của Tòa đại sứ Trung cộng ở Hà Nội.

BẠN ĐANG NGHĨ GÌ?

Tôi nghĩ rằng Đại sứ quán Trung Quốc ở Hà Nội đã ngang nhiên thách thức người Việt Nam khi công bố bản đồ đường lưỡi bò trong một bản tin của họ vào ngày 2 – 3 – 2020.

Ai cũng biết, tất cả bản đồ Trung Quốc được in ra trước năm 1949 không có đương lưỡi bò / đường chín đoạn. Đất đai của người Hán ở cực nam là đảo Hải Nam. Đường chín đoạn mơ hồ trên biển Đông chỉ được người Trung Quốc tự ý vẽ ra từ năm 1949 như một hình thức xâm lược trên bản đồ.

Giới chức Trung Nam Hải trở nên hung hãn trong cách cư xử với các nước nhỏ yếu chung quanh biển Đông nhằm áp đặt chủ quyền của Trung Quốc trên biển, khi họ trở nên hùng cường, từ bỏ sách lược ẩn mình chờ thời của Đặng Tiểu Bình.

Sáng nay, VOA loan tin cộng đồng mạng người Việt đang phẫn nộ trước hành động xâm phạm trắng trợn chủ quyền quốc gia Việt Nam của cơ quan ngoại giao Trung Quốc ở Hà Nội.

Kể từ ngày Đại sứ quán TQ ở Hà Nội công bố bản tin chống dịch Covid Vũ Hán của họ, in kèm bản đồ đường lưỡi bò đến hôm nay đã trên ba tuần, chưa thấy bất kỳ một tuyên bố nào từ phía Việt Nam ! Có thể tôi đã không theo dõi hết các tin tức từ Chính phủ của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc chăng? Báo chí và truyền thông nhà nước cũng không có mẩu tin nào về hành vi xâm phạm chủ quyền quốc gia Việt Nam trên biển Đông của chính quyền Tập Cận Bình.

Giới chức Trung Nam Hải không từ bất kỳ mánh khóe, thủ đoạn nào trong việc xâm chiếm lãnh thổ – lãnh hải Việt Nam như chúng ta đã và đang chứng kiến.

Từ chỗ cho dân Trung Quốc mặc áo đường lưỡi bò du lịch VN; mang hộ chiếu in hình lưỡi bò tới VN; in bản đồ thế giới có đường lưỡi bò mang vào VN; gắn bản đồ đường lưỡi bò vào phim ảnh chiếu ở VN; cho người Tàu làm hướng dẫn viên du lịch ở VN nói với dân du lịch Tàu rằng Huế là của Trung Quốc; và nay là bản tin của Sứ quán Trung Quốc ở Hà Nội chính thức nói với dân chúng Việt Nam : 80 đến 90 % mặt nước biển Đông là của Trung Quốc.

Các thế hệ lãnh đạo Trung Quốc nhất quán trong tuyên bố, biển Hoa Nam (biển Đông) là lợi ích cốt lõi của Trung Quốc. Điều đó chứng tỏ rằng giới lãnh đạo Trung Nam Hải sẽ không bao giờ từ bỏ tham vọng mở rộng lãnh hải của Trung Quốc trên vùng biển này. Cách thức TQ tạo ra các vùng xám, biến vùng không tranh chấp thành vùng tranh chấp với Việt Nam, Philippines, Nam Dương, v.v, là thực hiện dã tâm cưỡng chiếm Biển Đông của họ.

Hễ là người Việt Nam yêu nước thì không thể coi kẻ cướp đất đai biển đảo của đất nước mình là ân nhân, bạn hữu.

Lê Văn Sinh (Tễu Blog 18.03.2020)

Dư luận Việt Nam phẫn nộ về bản đồ lưỡi bò của Tòa Đại sứ Trung cộng ở Ý

Du khách mang khẩu trang bên ngoài thắng cảnh Colosseo ở Rome ngày 28/2/2020 giữa dịch Covid-19. (Photo by Andreas SOLARO / AFP)

Du khách mang khẩu trang bên ngoài thắng cảnh Colosseo ở Rome ngày 28/2/2020 giữa dịch Covid-19. (Photo by Andreas SOLARO / AFP)

Dư luận tại Việt Nam đã lên tiếng phản đối việc Trung cộng lợi dụng dịch COVID-19 để đăng một bức hình vẽ bản đồ Trung cộng với đường lưỡi bò nhằm khẳng định tuyên bố chủ quyền của họ trên Biển Đông.

Một nghệ sĩ trẻ tuổi người Ý tên Aurora Cantone, 18 tuổi, muốn bày tỏ sự cảm kích của người dân Ý về những sự hỗ trợ của Bắc Kinh giữa lúc dịch corona đang bùng phát dữ dội tại đây, đã thiết kế một bức vẽ có bản đồ nước Ý được hai nhân viên y tế chống đỡ, một nũ điều dưỡng viên Ý và một bác sĩ người Trung cộng, để nói lên tình tương thân tương trợ trước tai hoạ do dịch Covid-19 mang lại.

Phía Trung cộng đã đáp lễ bằng một bức vẽ có ý nghĩa tương tự trên đó có bản đồ Trung cộng và hai nhân viên y tế, nhưng không quên kèm theo bản đồ hình chữ U, còn gọi là bản đồ đường lưỡi bò hay đường 9 đoạn, để ám chỉ Biển Đông là thuộc lãnh thổ Trung cộng, mặc dù động thái này là để cảm ơn nước Ý đã từng giúp Trung cộng trong thảm hoạ động đất ở Tứ Xuyên vào năm 2008.

Bài viết của sứ quán Trung cộng viết: “Có thể bạn đã quên, nhưng chúng tôi sẽ nhớ mãi. Giờ đến lượt chúng tôi giúp các bạn.”

Hai bức vẽ song song tải lên trang web của Đại sứ quán Trung cộng hôm 16/3 lập tức gây phản ứng dữ dội của công chúng Việt Nam.

Nhiều dân mạng xã hội chia sẻ sự phẫn nộ của họ, phản đối bức vẽ của Trung cộng. Facebooker Chiến Phạm và Trương Thu An đăng hashtag “Stop lying, Truong Sa (Spratly Islands), Hoang Sa (Paracel Islands) belong to Vietnam”, kêu gọi Trung cộng hãy “ngưng nói dối về Biển Đông”, và khẳng định “Trường Sa, Hoàng Sa là của Việt Nam”.

Bản tin của Sputnik News cho biết nhiều nghệ sĩ Việt Nam đã góp tiếng kêu gọi dân mạng Việt Nam đồng loạt phản đối ý đồ độc chiếm Biển Đông của Trung cộng. Trong số các nghệ sĩ được nêu tên có Ca sĩ Châu Khải Phong, Nathan Lee và MC Vũ Mạnh Cường. Tất cả đều khẳng định “Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam”.

Động thái của Trung cộng đã khiến nhiều người càng thêm lo ngại, một phần vì nó nói lên quyết tâm của Trung cộng, không bỏ lỡ bất cứ một cơ hội nào, dù là giữa trận đại dịch do virus khởi phát từ Vũ Hán, đang làm chao đảo thế giới, để khẳng định đòi hỏi chủ quyền trên Biển Đông, và tiếp tục chính sách bành trướng của mình.

Gần đây khi tình hình dịch ở Ý đã xấu đi đáng kể với hơn 2000 ca tử vong. Khi Roma kêu gọi sự giúp đỡ của cộng đồng quốc tế, Trung cộng đã lập tức viện trợ hàng tấn hàng hoá gồm thiết bị y tế và đồng thời gửi nhân lực sang giúp nước Ý, vốn là đối tác quan trọng của Trung cộng ở Châu Âu, sau khi Ý đồng ý hợp tác với Bắc Kinh để thực thi chiến lược “Vành đai và con đường” của Chủ tịch Trung cộng Tập Cận Bình.

VOA (17.03.2020)

Trữ lượng tại nhiều mỏ dầu chủ lực của Việt Nam đang bị suy giảm

Hình minh họa

Hình minh họa  Courtesy of pvn.vn

Trữ lượng dầu khí khai thác được từ những mỏ truyền thống chủ lực của Việt Nam hiện nay đang bị suy giảm sau 20-30 năm khai thác.

Báo trong nước loan tin ngày 17/3, trích thông tin từ Tập đoàn dầu khí Việt Nam PVN.

Cụ thể, các mỏ dầu được PVN cho là truyền thống chủ lực bao gồm Bạch Hổ, Sư Tử, Rạng Đông, và Lan Tây. Đây là những mỏ dầu được nói đóng góp sản lượng quan trọng, cung cấp gần 600 triệu tấn dầu khí quy đổi trong thời gian qua.

Trước khó khăn gia tăng trữ lượng dầu khí đang suy giảm, PVN cho biết sẽ đầu tư thêm các giải pháp công nghệ để tận thu hồi dầu tại các mỏ vừa nêu.

Ngoài ra, PVN cũng sẽ đa dạng hóa nguồn đầu tư trong nước cũng như tiếp tục thu hút đầu tư nước ngoài đẩy mạnh triển khai công tác tìm kiếm, thăm dò ở các vùng truyền thống và khu vực nước sâu, thậm chí xa bờ ngay khi có thời cơ thuận lợi.

Tuy nhiên, PVN đang gặp khó khăn do cơ chế chính sách cho ngành dầu khí chưa thay đổi kịp thời. Cụ thể, có nhiều quy định trong các luật về hoạt động dầu khí chưa phù hợp với bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, biến động của kinh tế, chính trị, dầu khí trên thế giới và trong khu vực.

PVN cũng đang trong tình trạng thiếu vốn đầu tư trầm trọng, nhiều dự án phát triển quan trọng đang chậm tiến độ. Nguyên nhân được nói là do quá trình thăm dò và chi phí thăm dò cần được đầu tư nhiều nhưng trong những năm qua vẫn luôn ở mức thấp kỷ lục.

Thêm vào đó, tình hình Biển Đông không ổn định với hành động quyết đoán, khiêu khích từ phía Trung cộng cũng khiến PVN gặp nhiều khó khăn trong việc hoạch định một kế hoạch dài hạn, hay tìm kiếm các đối tác chiến lược cùng thăm dò, khai thác dầu khí.

RFA (17.03.2020)

Dư luận Việt Nam phản đối: Bài về đường lưỡi bò của Tòa Đại sứ Trung cộng ở Ý gây phẫn nộ

Bildergebnis für map of china south china sea

© Depositphotos / Furian

Trong bài đăng của mình hôm 16.3, tòa Đại sứ Trung cộng tại Ý đã đăng bức vẽ chứa “đường lưỡi bò”, một tuyên bố chủ quyền phi pháp trên Biển Đông. Bức vẽ có nội dung tri ân sự giúp đỡ của người Ý trong quá khứ và bày tỏ Trung cộng sẵn sàng hỗ trợ Ý trong cuộc chiến với dịch Covid-19 hiện nay.

Tuy nhiên, hiện nay, dư luận tại Việt Nam, đặc biệt là một số nghệ sĩ đã lên tiếng phản đối việc Trung cộng lợi dụng dịch SARS-CoV-2 để đăng bản đồ đường lưỡi bò (đường chín đoạn) phi pháp, xâm phạm chủ quyền Việt Nam trên Biển Đông.

Tòa Đại sứ Trung cộng ở Ý gây phẫn nộ với hình ảnh đường lưỡi bò

Cụ thể, trong bài đăng trên fanpage Facebook của mình, Đại sứ quán Trung cộng đề cập đến việc Trung cộng sẵn sàng hỗ trợ Ý, nước đang làm một trong những tâm chấn lớn của dịch Covid-19 ở châu Âu. Nguyên văn bài đăng như sau:

“Forse te ne sei dimenticato, ma noi ricorderemo per sempre. Ora tocca a noi aiutarti…” (tạm dịch: Bạn có thể đã quên, nhưng chúng tôi sẽ luôn nhớ. Bây giờ chúng tôi sẽ giúp bạn). Bài viết được đính kèm bức ảnh vẽ hai nhân viên y tế mặc trang phục có hình quốc kỳ của hai nước. Hai người trong ảnh đang cùng nâng đỡ cả bản đồ của Trung cộng và Ý, ngụ ý tinh thần tương thân tương trợ. Fanpage này cùng dành lời cảm ơn đến hai nghệ sĩ thực hiện tác phẩm là Aurora Cantone và Quân Chính Bình.

Tuy nhiên, dư luận Việt Nam đã nhanh chóng phát hiện trong hình bản đồ Trung cộng có chèn hình ảnh “đường lưỡi bò” phi pháp với màu vàng nổi bật. Đường lưỡi bò này đã bị Tòa trọng tài, được thành lập theo phụ lục VII của Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển 1982 (UNCLOS), bác bỏ trong phán quyết hồi năm 2016.

Những người phát hiện sự việc đã nhanh chóng chụp màn hình và kêu gọi phản đối trước ý đồ xấu xa của Trung cộng.

Tính đến hiện tại, bài đăng của Đại sứ quán Trung cộng tại Ý đã nhận về hơn 88.000 lượt tương tác (với 75.000 tương tác “phẫn nộ”), cùng hơn 86.000 bình luận và 9.100 lượt chia sẻ. Người dùng mạng Việt Nam đã đồng loạt để lại bình luận phản đối thông tin sai lệch từ phía Trung cộng. Các bình luận đa phần được viết bằng 3 thứ tiếng, khẳng định Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam.

Bên cạnh đó, nhiều nghệ sĩ nổi tiếng của Việt Nam cũng bày tỏ thái độ phản đối. Ca sĩ Châu Khải Phong bức xúc để lại bình luận bằng tiếng Anh và tiếng Việt:

“Hỡi tất cả anh em, tất cả FC của Châu Khải Phong, chúng tôi xin khẳng định một lần nữa, Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam nha mấy bạn”.

Trong khi đó, ca sĩ Nathan Lee để lại phản hồi bằng tiếng Anh và tiếng Ý:

“Gửi Ý! Tôi biết các bạn đang gặp rất nhiều khó khăn hiện tại nhưng đừng quên rằng quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thuộc về Việt Nam. Ngày nay, nhiều người đang quên đi sự thật này. Cá nhân tôi không thể đặt niềm tin vào những kẻ dối trá. Ai phụ trách trang này nên thay hình sớm nhất có thể. Hãy có lòng tự trọng, hãy thành thật với chính bản thân mình và với thế giới, trước khi tự ca tụng mình đang “giúp đỡ” một ai đó”.

Về phần mình, MC Vũ Mạnh Cường bày tỏ sự bức xúc:

“Hôm trước một đài truyền hình Mỹ khi đưa hình ảnh Việt Nam để nói về bài Ghen Covy cũng không để hình ảnh hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Làm niềm vui chẳng trọn vẹn. Hôm nay đến việc này. Quá bức xúc. Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam. Nên không thể lập lờ được chuyện này. Nếu nước Ý không phân biệt được hoặc vì “nghĩa tình” mà lập lờ cho qua thì cũng tẩy chay nước Ý luôn”.

Một số người dùng mạng Việt Nam khác thậm chí đã cắt bỏ “đường lưỡi bò” trên bức ảnh, rồi gửi lại cho Fanpage phía Đại sứ quán Trung cộng tại Ý. Nhiều bạn khác đăng hình ảnh bản đồ Việt Nam với hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, đính kèm với khẩu hiệu “Việt Nam – Một phần cũng không thể thiếu”.

Động thái “đáp lễ” nước Ý từ Trung cộng

Được biết, đây không phải là lần đầu tiên bức ảnh mang tính tuyên truyền sai lệch này được đăng lên mạng xã hội. Hôm 14.3, chính tài khoản của bà Hoa Xuân Oánh – Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung cộng, cũng đăng tải tấm ảnh này kèm theo dòng chú thích bằng tiếng Anh.

Trong bài đăng của mình, bà Hoa Xuân Oánh nhắc nhớ về ơn nghĩa của người Ý khi giúp đỡ Trung cộng trong trận động đất ở Mân Xuyên, tỉnh Tứ Xuyên năm 2008, và giờ là lúc để Trung cộng đáp lễ.

“Chúng ta gặp sau trận động đất Mân Xuyên năm 2008 ở Trung cộng, và lần nữa chúng ta cùng chống lại COVID-19 ở Ý. Chúng ta là một gia đình, chúng ta sát cánh bên nhau. Một bức vẽ tuyệt hảo của Aurora Cantone”, bà Hoa Xuân Oánh viết.

Trung cộng đã “mượn” bức vẽ nước Ý của Aurora Cantone để “chế” ra bức vẽ đáp lễ thứ hai, với bản đồ Trung cộng và hình ảnh “đường lưỡi bò” gây tranh cãi.

Sputnik (17.03.2020)

Bị Hoa Kỳ đe dọa trừng phạt, Nam Dương hủy bỏ thỏa thuận mua vũ khí Nga và Trung Cộng

https://www.datviet.com/wp-content/uploads/2020/03/Screen-Shot-2020-03-15-at-1.48.06-PM-696x467.png

Chính quyền tổng thống Trump gây sức ép buộc Nam Dương từ bỏ các thỏa thuận mua phi cơ chiến đấu do Nga sản xuất và các tàu hải quân Trung Cộng, đây là một phần trong nỗ lực toàn cầu nhằm ngăn chặn các đối thủ hàng đầu của Hoa Kỳ làm xói mòn ưu thế quân sự của nước này.

Tờ Tin Hoa Nam Buổi Sáng dẫn lời một viên chức quen thuộc với sự việc cho biết, Nam Dương gần đây đã quyết định hủy bỏ kế hoạch mua 11 phi cơ chiến đấu Sukhoi Su-35 với giá khoảng hơn 1 tỷ Mỹ Kim.

Viên chức này còn cho biết, vào tháng trước, Hoa Kỳ cũng gây áp lực với Nam Dương trong việc đàm phán với Trung Cộng để mua một số tàu tuần tra hải quân với giá khoảng 200 triệu Mỹ Kim. Vị viên chức trên cho hay, các thỏa thuận trở nên khập khiễng sau khi các viên chức Hoa Kỳ nói rõ Nam Dương có thể phải đối mặt với các lệnh trừng phạt vì thỏa thuận với Nga.

Chính quyền của Tổng thống Joko Widodo cũng lo lắng Hoa Kỳ sẽ có những hành động trừng phạt thương mại nếu Nam Dương thỏa thuận với Trung Cộng. Theo thỏa thuận mua bán được công bố vào tháng 8 năm 2017, Nam Dương sẽ mua 11 chiến đấu cơ Sukhoi Su-35 để đổi lấy việc Nga mua hàng hóa của nước này như cao su, dầu cọ thô, cà phê, trà, đồ nội thất và gia vị. Thỏa thuận cuối cùng đã được ký bởi cựu Bộ trưởng Quốc phòng Nam Dương Ryamizard Ryacudu vào tháng 2 năm 2018.

Ông Ly Lyudmila Vorobieva, đại sứ Nga tại Nam Dương, phản đối việc Hoa Kỳ gây áp lực đối với các quốc gia có ý định mua thiết bị quân sự của Nga, với mục đích rất rõ ràng là làm cho các quốc gia này từ chối nhận vũ khí từ Nga và chuyển sang Washington. 

Theo SBTN (15.03.2020)

Tranh chấp Việt-Trung ở Biển Đông : Giới hạn của luật pháp quốc tế

Hội thảo quốc tế về Biển Đông tại Hạ Viện Pháp ngày 27/02/2020

Hội thảo quốc tế về Biển Đông tại Hạ Viện Pháp ngày 7/02/2020  RFI

Ngày 27/02/2020, nhóm Nghị sĩ hữu nghị Pháp-Việt của hai viện Quốc Hội Pháp đã tổ chức một cuộc hội thảo quốc tế về tình hình Biển Đông. Nếu các chuyên gia quốc tế, đặc biệt là Pháp, nói chung ủng hộ Việt Nam trong việc tranh chấp chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, thì cuộc hội thảo này một lần nữa cho thấy sự hạn chế của luật pháp quốc tế trước thái độ lấn lướt của Trung cộng đối với các nước tranh chấp, đặc biệt là đối với Việt Nam

Cuộc hội thảo diễn ra dưới sự bảo trợ của nữ dân biểu gốc Việt Stéphanie Do, chủ tịch Nhóm Hữu nghị Pháp – Việt tại Hạ Viện và với sự hỗ trợ của đại sứ quán Việt Nam. Với đề tài “Biển Đông : Thách thức và thời cơ đối với Pháp và Việt Nam, các nước ven bờ và các cường quốc Ấn Độ – Thái Bình Dương “, cuộc hội thảo quy tụ các nhà nghiên cứu Pháp, Việt, dưới sự điều phối của giáo sư Pierre Journoud, Đại học Paul – Valéry Montpellier 3.

Trong phiên buổi sáng, diễn ra tại một phòng họp của Hạ Viện Pháp, cử tọa đã nghe phần trình bày của giáo sư Monique Chemillier-Gendreau (Đại học Paris – Diderot), nói về luật quốc tế đối với vấn đề chủ quyền lãnh hải ở Biển Đông, đặc biệt Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS) để xác định chủ quyền quốc gia đối với vùng biển, đảo, phân định biên giới trên biển giữa các quốc gia cũng như ranh giới các vùng lãnh hải, đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, trong đó có phán quyết của Toà án Trọng tài Thường trực La Haye 2016. Giáo sư Laurent Gédéon (Cao đẳng Sư phạm Lyon) có bài tham luận về hoạt động của các cường quốc tại Biển Đông hiện nay.

Giáo sư Jean-Marie Crouzatier điểm lại các nguồn lịch sử mà các bên tranh chấp ở Biển Đông đưa ra để bảo vệ yêu sách chủ quyền của mình. Theo giáo sư Crouzatier, có rất nhiều nguồn tài liệu lịch sử tại châu Âu, đặc biệt là tại Pháp, có thể được sử dụng vào việc giải quyết tranh chấp Biển Đông, như các văn thư của nhà Nguyễn, mà các bản sao trong kho lưu trữ của chính quyền thuộc địa Pháp vẫn còn được lưu giữ ở Pháp.

Đại diện cho phía Việt Nam, Viện trưởng Viện Biển Đông, Học Viện Ngoại Giao, Nguyễn Hùng Sơn trình bày quan điểm của Hà Nội về những diễn biến mới nhất tại Biển Đông, trong đó có vụ Trung cộng đưa tàu khảo sát vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam năm ngoái. Đại sứ Nguyễn Hồng Thao, phó chủ tịch Ủy ban Luật pháp Quốc tế của Liên Hiệp Quốc, thì giải thích về tác động của phán quyết năm 2016 của Tòa Trọng Tài Thường Trực về Biển Đông trong vụ Philippines kiện Trung cộng.

Phiên buổi chiều của cuộc hội thảo, diễn ra tại một phòng họp của Thượng Viện Pháp, tập trung nói về những thách thức và tiềm năng về kinh tế, môi trường, khoa học và văn hóa ở Biển Đông. Đây là lần đầu tiên một cuộc hội thảo về Biển Đông được tổ chức cùng ngày tại hai viện của Quốc Hội Pháp.

Nói chung, trong cuộc hội thảo, các diễn giả đã phân tích các khía cạnh pháp lý và chính trị-chiến lược của vấn đề tranh chấp chủ quyền và hoạt động của các bên ở Biển Đông, nêu bật những quan ngại của quốc tế về những hoạt động của Trung cộng quân sự hóa và thay đổi nguyên trạng các thực thể ở Biển Đông. Họ đặc biệt nhấn mạnh các nước tranh chấp, đặc biệt là Trung cộng, phải tuân thủ Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển, kêu gọi tôn trọng quyền chính đáng của các quốc gia liên quan.

Trả lời RFI Việt ngữ sau phiên hội thảo buổi sáng, ông Nguyễn Hùng Sơn, Viện trưởng Viện Biển Đông, nêu nhận xét của ông về hội thảo :

« Qua sự tham gia của các đại biểu hôm nay, tôi thấy đáng mừng ở chỗ vấn đề Biển Đông đang ngày càng được cộng đồng quốc tế, đặc biệt là Pháp và Liên Hiệp Châu Âu quan tâm. Họ quan tâm đến Biển Đông theo nhiều khía cạnh khác nhau, không phải chỉ vì đó là một vùng biển có nhiều xung đột, mà còn là một nơi hội tụ rất nhiều lợi ích của cộng đồng quốc tế và cũng có nhiều triển vọng hợp tác.

Đặc biệt, Biển Đông còn là nơi kiểm chứng mức độ thượng tôn pháp luật của cộng đồng quốc tế, hiệu lực của pháp luật quốc tế, nhất là Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982. Tôi thấy các đại biểu Pháp nói rất nhiều về việc tăng cường hiệu lực của luật pháp quốc tế, rằng một nước, dù lớn hay nhỏ đều cần phải tuân thủ luật pháp quốc tế. Họ cũng kêu gọi tăng cường hợp tác, nhất là hợp tác đa phương, để tăng cường việc áp dụng Công ước 1982, không chỉ ở Biển Đông, mà ở khắp nơi trên thế giới, với hy vọng là khi tất cả các nước đều tôn trọng Công ước về Luật Biển, nhất là nước đã ký và phê chuẩn Công ước, như Trung cộng, thì trật tự, hòa bình, ổn định trên biển sẽ được duy trì. »

Là một trong những chuyên gia kỳ cựu về Biển Đông, giáo sư Monique Chemillier-Gendreau, nhấn mạnh đến chính sách của Trung cộng nhằm áp đặt chủ quyền của họ trên Biển Đông :

« Đó là một phần trong chính sách của Trung cộng. Trung cộng vẫn thi hành chính sách gọi là « sự đã rồi », tức là họ hành xử như thể là những đòi hỏi của Bắc Kinh chính là luật pháp quốc tế ! Hơn nữa, từ rất lâu, họ vẫn thao túng dư luận trong nước, tuyên truyền rằng Trung cộng có đầy đủ các quyền trên toàn bộ vùng biển mà rất tiếc vẫn được gọi là biển Nam Trung cộng Hải (Mer de Chine méridionale). Nay Trung cộng đã có một sức mạnh đáng kể về hải quân và không quân, chứ không phải như cách đây 50 năm, nên cứ tiếp tục lấn tới, với hy vọng là « sự đã rồi » sẽ dần dần biến thành luật. Cho nên, các nước trong vùng, toàn bộ các nước ASEAN, đặc biệt là Việt Nam phải phản đối mỗi lần Trung cộng có hành động như vậy. Phải phản đối lên Liên Hiệp Quốc để ngăn chận chính sách « sự đã rồi » của Trung cộng được chấp nhận. »

Chính là nhằm ngăn chận chính sách đó của Trung cộng mà Philippines đã kiện Trung cộng ra trước Tòa Trọng Tài Thường Trực. Vào tháng 07/2016, Toà đã ra phán quyết kết luận rằng không có cơ sở pháp lý để Trung cộng yêu sách quyền lịch sử đối với tài nguyên tại các vùng biển phía bên trong đường 9 đoạn.

Tuy rằng phán quyết này đã bị Bắc Kinh bác bỏ, đại sứ Nguyễn Hồng Thao, phó chủ tịch Ủy ban Luật pháp Quốc tế của Liên Hiệp Quốc, cho rằng đây vẫn là một cơ sở pháp lý quan trọng, đối với những nước như Việt Nam :

« Phán quyết này chỉ có giá trị đối với Philippines và Trung cộng, hai bên có liên quan đến việc tuân thủ phán quyết. Tuy nhiên, Trung cộng đã không chấp nhận thẩm quyền của tòa án và cũng không công nhận phán quyết. Song, theo quy định của Phụ lục 7 của Công ước 1982, phán quyết của tòa án quốc tế được thành lập phù hợp với Phụ lục 7 của Công ước bao giờ cũng là phán quyết chung thẩm và có giá trị bắt buộc đối với các bên, đối với các quốc gia khác không phải là các bên tham gia trong vụ kiện.

Chúng ta có thể coi các phán quyết của tòa án quốc tế cũng như của Tòa Trọng Tài là nguồn bổ sung của luật quốc tế để so sánh trong việc xem xét lại những lập trường và những áp dụng giải thích của điều 123, khoản 3 về quy chế pháp lý của các đảo, các đá tại Trường Sa. »

Về phần ông Nguyễn Hùng Sơn, ông cho biết là Việt Nam vẫn để ngỏ khả năng đưa Trung cộng ra trước một tòa án quốc tế, nếu Bắc Kinh tiếp tục những hành động xâm lấn chủ quyền lãnh hải của Việt Nam, giống như năm 2019:

« Việt Nam đã nói rất rõ là Việt Nam sẽ sử dụng tất cả những biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế để giải quyết tranh chấp Biển Đông, có nghĩa là Việt Nam không loại trừ biện pháp hòa bình nào. Mặc dù Việt Nam không nói ra nhưng Việt Nam không loại trừ biện pháp giải quyết các tranh chấp Biển Đông thông qua các cơ quan tài phán quốc tế.

Đưa ra tòa án nào còn tùy thuộc vào vấn đề mà các nước muốn giải quyết là gì. Mỗi tòa án có một chức năng riêng. Các cơ quan chức năng Việt Nam, nhất là các chuyên gia pháp lý đã và đang nghiên cứu, chuẩn bị các hồ sơ cần thiết, để nếu cần sử dụng biện pháp đó, thì Việt Nam sẵn sàng. »

Tuy nhiên, giáo sư Monique Chemillier-Gendreau lưu ý về sự hạn chế của luật pháp quốc tế trong việc phân xử các vụ tranh chấp chủ quyền như ở Biển Đông, cho dù theo bà, Việt Nam có một hồ sơ rất vững chắc nếu kiện Trung cộng ra trước một tòa án quốc tế :

« Như tôi vừa nói trong cuộc hội thảo, luật pháp quốc tế rất giới hạn. Theo luật quốc tế, quốc gia nào muốn đưa vụ việc ra trước Tòa án Công lý Quốc tế thì phải có sự đồng ý của cả quốc gia kia. Khả năng duy nhất đó là kiện lên Tòa Trọng tài Thường trực như Philippines đã làm, nhưng kết quả đạt được cũng rất hạn chế, vì tòa này không thể phân xử về vấn đề chủ quyền. Tôi nghĩ rằng công luận quốc tế có vai trò rất quan trọng, rằng chúng ta phải sử dụng mọi phương tiện hiện có : phản đối về ngoại giao, đưa vấn đề ra Liên Hiệp Quốc mỗi khi có hành động hung hăng và có thể là kiện Trung cộng ra Tòa Trọng tài nếu Việt Nam cảm thấy sẳn sàng làm điều này.

Nếu kiện Trung cộng, Việt Nam có một hồ sơ rất tốt. Nhưng chúng ra không biết trong hồ sơ của phía Trung cộng có những gì. Tôi đã từng đến Trung cộng, từng gặp nhiều nhà sử học Trung cộng. Họ cứ bảo : « Chúng tôi có nhiều tư liệu xưa, những chứng cứ để xác nhận chủ quyền », nhưng họ chưa bao giờ đưa ra những tư liệu, chứng cứ đó. Tôi không tin là họ thật sự có những chứng cứ đó. Theo tôi thì một tòa án rất khách quan như Tòa án Công lý Quốc tế phải có trong tay toàn bộ những hồ sơ của hai bên. Nhưng tôi cho là Việt Nam có một vị thế rất tốt ».

Trước mắt, để ngăn ngừa những xung đột trên Biển Đông, ASEAN đang thương lượng với Trung cộng về một bộ quy tắc ứng xử COC. Nhưng các chuyên gia như bà Monique Chemilier-Gendreau không mấy tin tưởng vào bộ quy tắc này. Theo bà, bộ quy tắc ứng xử một khi được chấp thuận sẽ chỉ giúp cho Trung cộng rảnh tay hành động, nhân danh bộ quy tắc ứng xử này, họ sẽ tiếp tục chính sách của họ để áp đặt chủ quyền trên Biển Đông.

RFI (10.03.2020)