BỐN MƯƠI NĂM ‘’HÁT VỚI SOLIDARNOSC’’

TỪ GENÈVE THỤY SĨ ĐẾN VARSOVIE BA LAN

HƯỚNG VỀ SÀI GÒN VIỆT NAM

TRONG CƠN ĐẠI KHỔ NẠN CỘNG SẢN HÀ NỘI VÀ ĐẠI DỊCH VŨ HÁN

 

Trong Đêm Giáng Sinh đầu thập niên 80, từ Genève, một nhà thơ Việt Nam tị nạn cộng sản, mang theo mảnh đất quê hương thân thiết khi vượt biển, đã “hát với anh chị em Ba Lan, hát với Việt Nam tôi”. ‘’Hát với Solidarność’’, một bài thơ đã được đài Âu châu Tự do (Radio Europe Libre) giới thiệu với nhân dân Ba Lan đang tranh đấu “cho Hy Vọng, Mùa Xuân, Phẩm Giá Con Người”.

Lúc đó, anh chị em Ba Lan, Công đoàn Solidarność, bị chế độ “phát xít đỏ” do Liên Sô cưỡng đặt đàn áp khốc liệt. Báo mật vụ công an cộng sản Ba Lan đã lên tiếng công kích tác giả bài thơ và buổi phát thanh của đài Âu châu Tự do. Thính giả người Ba Lan đã cắt bài báo đó rồi kín đáo gởi cho đài rồi đài chuyển cho tác giả. Hát với Solidarność được bà Hoàng Nguyên, một thuyền nhân tị nạn Cộng sản định cư tại Genève Thụy Sĩ, chuyển dịch ra tiếng Pháp. Bài thơ gây nên sự xúc động sâu xa nơi nhiều người đọc, nhứt là cộng đồng Ba Lan lưu vong cùng giới trí thức, nhà văn, nhà thơ Pháp. Cố triết gia Leszek Kolakowski (1927-2009), nguyên phát ngôn nhân Phong trào Dân chủ Đối lập, cố vấn cho Solidarność, giáo sư đại học Oxford, cho biết ông đã đọc bài thơ đó giữa mùa đông Anh quốc trong lúc Ba Lan còn bị đọa đày khổ nhục. Tháng 6 năm 1999, ông đã đọc một bài diễn văn quan trọng khai mạc Đại Hội Thế Giới Văn Bút Quốc Tế ở Varsovie, nước Ba Lan hậu cộng sản. Dịp đó là lần đầu tiên ông gặp nhà thơ Việt Nam.

Từ Vatican, Đức Giáo Hoàng Jean Paul II gởi lời cám ơn và khích lệ tác giả bài thơ cùng người dịch. Văn thư bày tỏ xúc động và cảm tình còn đến từ hai nhà văn triết gia Simone de Beauvoir và Raymond Aron, nhà thơ Pierre Emmanuel, hai hội viên Hàn Lâm Viện Pháp, nhà văn Jean d’Ormesson và nhà thơ Léopold Sédar Senghor (cựu tổng thống Sénégal), sử gia Tadeusz Wyrwa, nhà trí thức Paul Thibaud, giám đốc chủ biên tạp chí Esprit, mục sư Eric Fuchs, giáo sư Khoa Thần học đại học Lausanne, v.v.

Mười năm sau Hát với Solidarność’’, đúng vào ngày 25 tháng 12 năm 1991. Ông Mikhaïl Gorbatchev loan báo ông chính thức từ chức Chủ tịch để chấm dứt cuộc hấp hối đau đớn của chế độ Liên Bang Cộng Hòa Xã Hội Sô Viết đã kéo dài trong nhiều tháng. Ông Mikhaïl Gorbatchev quyết định đọc bản Tuyên bố ngay đêm 24 tháng 12 năm 1991, tức là Đêm Giáng Sinh. Cuối cùng, ông đã nghe lời khuyên của Andreï Gratchev, người phát ngôn thân tín, dời lại 24 tiếng đồng hồ. Mục đích là để cho cộng đồng tín đồ Thiên Chúa giáo La Mã trên thế giới được làm lễ Giáng Sinh với tâm trí bình yên. Sự từ chức đột ngột và sự sụp đổ chớp nhoáng của cái gọi là ‘’thành trì xã hội chủ nghĩa’’ của mấy nước chư hầu tùy tinh (như chế độ Cộng sản Hà Nội) sẽ là một đại biến cố lịch sử. Hậu quả có thể tạo ra những sự nhiễu loạn, xáo trộn bất ngờ đối với tâm trí của rất nhiều người ở khắp năm châu. “Hát với anh chị em Ba Lan, hát với Việt Nam tôi”… ‘’Hát với Solidarność’’ trong Đêm Giáng Sinh 1981 để mười năm sau, Đêm Giáng Sinh 1991, thấy khối Cộng sản Liên Sô – Đông Âu bắt đầu sụp đổ lúc trời rạng đông.

Hai mươi lăm năm sau, ‘’Hát với Solidarność’’ được phổ biến để chào mừng Hội Nghị Quốc Tế về Quyền Lao Động Việt Nam diễn ra tại trụ sở Thượng viện giữa thủ đô Warszawa (Varsovie) của nước Ba Lan Tự Do, từ ngày 28 đến 30 tháng 10 năm 2006. Hội Nghị đó được sự đồng tình bảo trợ của nhiều nhà lập pháp Ba Lan, Công đoàn Đoàn Kết Solidarność và Ủy Ban Bảo Vệ Công Nhân Ba Lan. Nữ luật sư Lê Thị Công Nhân được mời tham dự Hội Nghị, dự định sẽ đọc một bài tham luận về cái gọi là ‘’luật lao động’’ của chế độ cộng sản Hà Nội và tình trạng những quyền lợi chính đáng của công nhân Việt Nam không được bảo vệ. Nhưng công an cộng sản đã trắng trợn dùng võ lực ngăn chặn bà Lê Thị Công Nhân đáp máy bay để đi Ba Lan. Đầu tháng tư năm 2010, bài thơ ‘’Hát với Solidarność’’ của thi hữu Nguyên Hoàng Bảo Việt được nữ thi sĩ Malgorzata Babelek (Gosia Babelek) dịch sang tiếng Ba Lan, cùng với bài thơ ‘’Những Đêm Tháng Mười’’ vinh danh cố linh mục Jerzy Popieluszko, người lãnh đạo tinh thần của Solidarność, bị mật vụ Cộng sản Ba Lan bắt cóc, tra tấn vô cùng dã man trước khi bị ám sát và ném xác xuống sông Vistule, trong một đêm tháng mười năm 1984.

Rồi ba mươi năm sau, ‘’Hát với Solidarnosc’’ để biết cười biết khóc với anh chị em Bắc Phi, Trung Cận Đông. Không còn sợ nữa, họ đã đứng lên, nắm tay nhau cùng đi tới. ‘’Hát với Solidarnosc’’ để biết thương xót và trân quý những cánh Hoa Lài mới nở, mong manh, rướm lệ máu, không bao lâu trước mùa Giáng Sinh 2010. Những cánh Hoa Lài làm nhớ đến Việt Nam, nhớ đến những búp sen chưa được vươn lên từ những đầm lầy sau 30 tháng tư 1975 khi cả nước bị giặc cờ đỏ búa liềm thống trị tàn nhẫn. Tiếc thay vì sự hiện hữu dù giới hạn của những nhân tố bảo thủ, Mùa Xuân của các dân tộc chưa được bừng nở như những vườn hoa tự do đầy hương sắc trên bờ Địa Trung Hải, dọc theo dòng sông Nil…Tuy nhiên những ngọn đuốc Hy Vọng cho Nhân Phẩm, cho Tình Người, cho Tự Do Dân Chủ, cho Công Bình Xã Hội, luân phiên bùng cháy. Từ thành phố nhỏ Sidi Bouzid, đã soi rọi được những đêm đen từng phủ trùm lên các quảng trường ở Tunis, ở Le Caire, ở Alexandrie… Cảm động biết bao những hình ảnh hào hùng của những đợt sóng đại dương những người trẻ tuổi, chỉ có tay trần với quyết tâm phá tan xích xiềng nô lệ, ngày đêm đổ về quảng trường Tahrir giữa thủ đô Ai Cập.

24 tháng 12 năm 2021, bốn mươi năm sau, ‘’Hát với Solidarnosc’’, trong Đêm Giáng Sinh này. Cùng với tác giả bài thơ và bạn hữu từ Varsovie, từ Prague, từ Bratislava, từ Berlin, từ Bucarest, từ Vilnius, từ Riga, từ Tallinn, từ Sofia, từ Tirana, từ Belgrade, từ Ljubljana, từ Zagreb, từ Skopje, từ Kiev…‘’Hát với Solidarnosc’’, chúng tôi muốn được gởi về Việt Nam những tín hiệu của Niềm Tin Chung – tin vào sự tất thắng cuối cùng của Chính Nghĩa Dân Tộc và Nhân Bản. Bất chấp sự leo thang trấn áp cực kỳ tàn bạo của chế độ độc tài cộng sản bản xứ khét tiếng nhũng lạm, tùy tinh của Bắc triều, tập đoàn tân đế quốc-thực dân-bành trướng. Trên đất nước bất hạnh mất dần hải phận, không phận, lãnh thổ, mỗi ngày càng xuất hiện thêm những người Việt Nam thể hiện lòng yêu nước thương đồng bào. Chỉ có trái tim, tiếng nói và ngòi bút, họ tiếp tục tranh đấu cho Nhân Quyền, cho Tự Do Dân Chủ, cho Hy Vọng Mùa Xuân, Phẩm Giá Con Người, cho Công Bình Xã Hội, cho Chủ Quyền Quốc Gia, cho Văn Hóa và Ngôn Ngữ đích thực của người Việt Nam Tự Do. Giống như những người bạn vô danh hai mươi, ba mươi, bốn mươi năm trước ở Ba Lan, Hung Gia Lợi, Tiệp Khắc, Đông Đức, Ukraine… với những bàn tay trần quyết tâm ôm lấy sứ mệnh lịch sử cùng đứng lên và đi tới.

Sắp hết năm, với những lời Cầu Nguyện Bình An, tâm tưởng chúng tôi hướng về những tù nhân chính trị, ngôn luận và lương tâm – những tù nhân vì Nhân Quyền Việt Nam. Hướng về thân nhân, gia đình bị sách nhiễu, áp bức của tất cả tù nhân nói trên. Hướng về đồng bào thầm lặng nhưng bất khuất. Tiếp tục nuôi dưỡng những nhà dân chủ đối kháng độc tài, bênh vực Nhân Quyền bị cộng sản bao vây, cô lập, khủng bố. Không ngừng lên tiếng thay cho những vị tu sĩ, các từng lớp công nhân nông dân, giáo chức, sinh viên, văn giới, nhà báo, luật sư, tác giả bút ký, trí thức và nghệ sĩ – đang bị cộng sản hành hạ, làm nhục, cưỡng bức nhốt ‘’bệnh viện tâm thần’’, chết lần mòn hoặc bị lưu đày, mất tích. Hướng về biển Đông và các vùng biển Đông Nam Á, hỏi thăm từng hải đảo, vì không bao giờ quên hàng trăm ngàn đồng bào thuyền nhân đã chết thảm hoặc mất tích trên đường đi tìm tự do, nhân phẩm và tình người. Cùng nhau tưởng nhớ đến những người yêu nước đã bỏ mình trong ngục tù cộng sản. Và những chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa, như liệt sĩ Ngụy Văn Thà và đồng đội đã anh dũng hy sinh tại Hoàng Sa, hướng về lá quốc kỳ của một đất nước Tự Do đã từng tung bay trên bầu trời thế giới văn minh. ‘’Hát với Solidarnosc’’, chúng ta hướng về Việt Nam đang bị chiếm đóng và vong thân với quốc nạn ngụy quyền cộng sản, đỉnh cao tội ác và đại dịch ngoại xâm Hán hóa. ‘’Hát với Solidarnosc’’,

chúng ta hướng về

Đằng sau những cánh cửa sổ

Khép vội trước mũi súng sát nhân

Sài Gòn đâu đã thất thủ

Thầm thì những lời ru con

Thay cho tiếng nói

Giặc đã cưỡng đoạt

Trên tháp chuông trơ vơ

Thập tự giá phô tấm lòng nhân ái

Dưới mái chùa hiu vắng

Hạnh từ bi nở ngát tòa sen

Bóng đen bầy quạ dữ

Bay vây quanh.

 

(Chúng) tôi đếm

Bấy nhiêu ngọn nến

Bao nhiêu nhánh mặt trời Tự do

Sẽ mọc lại.

(Chúng) tôi đếm

Bấy nhiêu giọt sương long lanh

Bao nhiêu chuỗi cười ròn rã

Bao nhiêu lớp người nô lệ

Sẽ đứng lên.          (Kẻ Sống Sót – Thơ NHBV 1978)

 

Nhân dịp vào Mùa Hy Vọng và Nhân Ái, xin được nói lên Niềm Tin :

cùng nhau góp phần xây dựng một thế giới thái hòa và khôi phục một quê hương Việt Nam mà chân trời là biên giới mới, nơi chia tay giữa con người và bóng tối, giữa yêu thương và tội ác.

Cho đồng bào và nhân loại thật sự được sống Hòa Bình, biết tôn trọng Nhân Phẩm, làm sáng tỏ Công Lý và trân quý Tự Do,

Kính gởi đến quý bạn hữu, quý bạn đọc và quý diễn đàn những Lời Cầu Chúc Tốt Lành, được hồng phúc bình an, sức khỏe vững bền, như hằng ước vọng.

 

Genève mùa Giáng Sinh 2021, trước thềm Năm Mới 2022

Liên Hội Nhân Quyền Việt Nam ở Thụy Sĩ

Ligue Vietnamienne des Droits de l’Homme en Suisse

Vietnamese League for Human Rights in Switzerland

***

 

Hát Với Solidarność

 

Một thuyền nhân Việt Nam xin được góp tiếng hát

Với anh chị em Ba Lan đêm Chúa ra đời

Với Popieluszko cùng Solidarność

Hát cho Hy Vọng, mùa Xuân, Phẩm giá con người.

 

Polska ơi! Polska ơi! Polska ơi! bất khuất

Cảm xúc nào hâm nóng trái tim tôi

Chúng ta từng sống và từng chết

Ngoài chiến trường và trong ngục tù

Giữa trại tập trung cuối trời hoang đảo

Trên điêu tàn đổ nát sáu triệu nấm mồ

Nhú lên lớp lớp những mầm non xanh biếc

Tung cánh ước mơ đến một thế giới thanh bình.

Hố bất công nhờ phù sa khỏa lấp

Lửa bạo hành sẽ tàn lụi dưới cơn mưa

Vườn Nhân ái góp bàn tay vun xới

Người người nhìn quen với nét mặt tin yêu

Chúng ta cũng biết xót thương biết khóc

Dàn trải tâm tình qua điệu múa lời ca

Sống với nhau một đời chân thật.

Sau hơn ba mươi năm áp bức đọa đày

Kiếp trâu ngựa tìm đâu thấy ngày mai

Muốn Tự do không thể van xin mà được

Ai hái trái cây hạnh phúc ta gieo trồng

Đất nước ta cớ sao Liên Sô làm chủ

Ta gặt cho ai lúa chín trên đồng?

Hướng về đâu những chuyến tàu máy móc

Toa xe đầy ắp mồ hôi nước mắt lao công

Nhà ta suốt mùa rét thiếu than để sưởi

Vợ ta buồn đau giấu kín trong lòng

Con ta gầy yếu không đủ sữa đủ thuốc

Đảng họp bàn yến tiệc mặc dân chúng lầm than

Cha mẹ dạy ta giúp người hàm oan cô thế

Đảng hô hào hận thù giai cấp đấu tranh

Đê vỡ trong lòng dân, sóng cuộn lên nỗi bất bình…

 

Từ ngày đó… từ cuộc nổi dậy ở Poznan

Giặc bố trí hàng vạn phi cơ đại bác

Hỏa tiễn hạch tâm, cả trăm sư đoàn thiết giáp

Chẳng thay đổi được gì cơn ác mộng triền miên

Không bao giờ chúng ngủ được yên

Chúng thảm sát bạn ta ở Berlin, ở Budapest

Ở Prague mùa Xuân, ở Huế Tết Mậu Thân

Không bỏ sót một ai bị nghi ngờ chống đối

Tu sĩ, công nông, giáo chức, sinh viên, văn giới

Từ Vientiane, Phnom Penh, rồi đến Kaboul.

Nuôi ảo tưởng dìm chúng ta xuống bùn đen tủi nhục

Nhưng áp lực nào lay chuyển nổi Ba Lan!

Vì từ ngày đó… từ cuộc nổi dậy ở Poznan

Đã nối tiếp Gdansk, Cracovie, Katowice

Solidarność, mười triệu anh em liên kết

Như gió ngàn, như sóng biển, như trời sao

Trái tim năm châu đập cùng nhịp với nhau

Hòa lẫn tiếng hát ngày đêm vang lên từ hầm mỏ

Từ nhà máy, công trường, bến tàu, góc phố

Đến sân ga, tòa báo, lớp học, giáo đường

Nghe thấy không hỡi người lính trẻ đi tuần đêm?

Hãy nhận rõ hình thù bóng đen đế quốc

Đang giẵm nát những búp hồng Tự do Độc lập

Đang dập tắt những chuỗi cười Hy vọng Tương lai.

Tháng Tư đen, Sài Gòn Việt Nam tôi bị bức tử

Suýt chết giữa biển Đông phép lạ nào giúp tôi hồi sinh?

Tôi đi tới … hỡi những bạn tù chưa hề biết mặt

Từ Hà Nội đến Bắc Kinh, Bình Nhưỡng đến Lhassa

Từ  Belgrade đến Sofia, La Havane đến Bucarest

Tôi đi tới Granada với Federico Garcia Lorca

Santiago với Pablo Neruda, Terezin với Robert Desnos

Tôi đi tới Paris của Victor Hugo và Paul Éluard

Tôi đi tới Nữu Ước của nữ thần Tự do

Mùa giông bão vẫn giơ cao ngọn đuốc 

Tôi muốn có mặt mỗi lần nghe gọi tên

Làm tiếng dội lời anh em từ ngục tối.

 

Polska ơi!  Polska ơi! Polska ơi bất khuất!*

Dưới đáy sâu bất hạnh lòng dũng cảm vô biên

Trí nhớ chợt sáng lên hình ảnh những người đã chết

Bị ám sát, mất tích…các liệt sĩ vô danh

Cho tôi sức sống mấy ngàn năm lịch sử

Cho tôi điềm tĩnh viết nốt bài thơ phẫn nộ.

Những ai chưa dám bênh vực tình cảm con người

Hãy xích lại gần, nhìn sự thật hôm nay

Đừng quay lưng nín câm, cúi đầu đồng lõa

Đây tiếng giày Zomo đạp tung từng cánh cửa

Tiếng lục soát bắt người như săn thú giữa rừng hoang

Tiếng roi vọt điên cuồng lẫn tiếng nghiến răng

Tiếng vợ kêu cứu cho chồng, tiếng trẻ thơ khóc ngất

Tiếng giây xích chiến xa lạnh lùng nghiền nát

Ôi những phiến tâm hồn trong suốt thơ ngây!

Tiếng bịt miệng, tiếng giãy giụa la hét mệt nhoài

Tiếng bóp cổ, tiếng cười rú lên thô bạo

Tiếng tuyết rơi nặng nề như trời mưa bão

Tiếng thời gian dừng lại rồi bỗng vắng im.

Tiếng súng xa không ngớt vọng về theo mỗi bước đêm

Đêm Guernica…đêm Oradour…đêm Auschwitz

Sau Tiệp Khắc, đêm Ba Lan khởi đầu từ Munich

Trong chuỗi dài những biến cố không thể nào quên

Ở Wujeck giặc bắn thẳng vào anh em công nhân

Máu lại đổ ở Gdansk vì những viên đạn sô viết.

Mẹ Ba Lan ơi! cho tôi được lau nước mắt

Được đau nơi vết thương giữa trái tim Người

Tôi biết trước một lần nữa tôi sẽ chết

Úp mặt trên vai anh em tôi yêu quý vô cùng

Bằng hữu thủy chung rạng ngời ánh mặt trời chân lý

Sẽ bốc cháy biến thành những hạt muối sương

Làm tan rã lớp máu đen đóng giá trên bờ Baltique

Máu vô tội đêm giới nghiêm phát xít

Phản chiếu lên sắc mặt một dân tộc chịu tang

Nghe thấy không hỡi người lính trẻ Ba Lan?

Chopin đang nhỏ lệ xuống từng nốt nhạc

Lệ nhân ái chứa chan trong lồng ngực

Như tiếng chim lạc bầy gãy cánh kêu thương

Con suối vui quen cũng đổi giọng đau buồn

Lúc chuyến tàu tốc hành đến gần khu hầm mỏ

Tiếng còi mặc niệm thay cho hồi chuông báo tử

Tội ác ngất trời, bè lũ phản bội quê hương!

Em chẳng còn nhớ sao? biết bao tấm gương

Vì Tổ quốc đồng bào hy sinh tuẫn tiết

Varsovie từng đẩy lui hồng quân Bolcheviks*

Tiến đến Vistule, cuối cùng giặc sẽ vỡ tan.

 

Đêm nay từ hố thẳm địa ngục trần gian

Chúng ta vững tin mai sau đời sẽ nở đẹp

Buổi đoàn viên tay nắm tay liên hoan múa hát

Bông lúa và búp hồng, hương sắc tương lai

Tuổi thơ ơi! em không còn quỳ gối đánh giày

Không còn nữa cuộc đời quên phẩm giá

Tranh Hòa bình không vẽ giữa rào kẽm gai

Không còn trại cải tạo khổ sai, bức tường ô nhục

Nhịp cầu bao dung bắc lại giữa lòng người

Nhà thương điên thôi ám ảnh lương tâm trí thức

Nói lên sự thật về đế quốc và tay sai

Ký giả thi nhân không còn bẻ cong ngòi bút

Ta mài thật sắc khơi thật sâu ý chí này!

 

Hát với anh chị em Ba Lan, hát với Việt Nam tôi

Hát với lòng tin cảm thông đổi thay thế giới

Đi với chúng ta còn có ức triệu vì sao

Những ngọn nến tuy mong manh sẽ cháy sáng rất lâu

Những ánh mắt đang tìm gặp nhau để nối tiếp

Giặc có thể tra tấn lưu đày thủ tiêu bắn giết

Đêm vẫn là đêm thù nghịch dối trá bất công

Nhưng tâm hồn dân tộc Ba Lan đã được nhân lên

Với kích thước vũ trụ không gian hùng vĩ

Gom lá chết đau thương đốt ngọn đuốc soi đường

Sau mỗi lần vấp ngã bằng hữu dìu nhau đứng dậy

Đêm đông nào ngăn được cành khô nẫy lộc đâm chồi

Xuân Nhân loại mỉm cười, gót sen thanh thoát…

 

Cho tôi được góp vào bản hợp ca Hành khúc

Thêm một tiếng Hy Vọng nữa, Polska ơi! bất khuất!

Hát với Solidarność, tôi không hát một mình

Đêm dã man này sẽ lùi bước trước bình minh.

                                                      Mùa Giáng Sinh 1981

                                            Nguyên Hoàng Bảo Việt

 

Trích tập thơ Dấu Tích Phượng Hoàng

Bạn Văn Paris xuất bản 2008

 

* Polska: tên nước Ba Lan.

* Năm 1920, Lénine đã xua đạo quân Bolcheviks vào tận Varsovie. Hồng quân phải rút lui sau khi bị thảm bại trước cuộc kháng chiến anh dũng của dân tộc Ba Lan .

        ——————————————————–

 

Sing with SOLIDARNOŚĆ

 

I am a humble Vietnamese boat people

Like my Polish brothers and sisters, we are a wounded nation

With Popieluszko and Solidarność

I raise my voice in song this Christmas night

Celebrating the birth of Christ,

To sing of the Dignity of Man,

Of Hope, of Spring.

 

O Polska! Polska! My Unconquerable Polska

What emotions warm my heart now

We lived, we died,

In life and death so well united

On the battle field,

In prison cells,

In extermination camps,

Confined to gulags,

Deported to the outer bounds of wild isles.

On the ruins of six million innocent people’s graves

Here spring forth countless green shoots,

And there, flying towards the kingdom of peace,

Spread the broad wings of Hope…

Injustice’s trenches will be filled by alluvium,

Terror’s flames will be extinguished in providential rain,

The heart’s garden will be cultivated and tended by devoted hands.

Inspired by trust and humanity,

Each one of us looks at the other with radiant countenance,

Bestowing compassion on those around us,

And deploring the human condition.

In fraternity, we show our mood with song and dance,

Together we demand of ourselves a life of honesty and truth;

After more than thirty years of oppression and misery,

Our existence as beasts of burden, captives of an inequitable order,

Offers us no future.

To gain our Freedom, we cannot beg,

Who plucked the fruit of happiness from the plant we grew?

This is our native soil,

What right did the Soviet Union have to impose its hegemony?

For whom must we harvest all these fields of golden wheat ?

Which country will gain from our trains full of machines?

The wagons are overflowing with tears and sweat of workers.

During the numbing winter,

We do not have enough coal to heat our homes,

Our sick wives conceal their suffering in silence,

Our scrawny children fade away from malnutrition;

They lack milk, potatoes and medicine.

Replete with satisfaction,

The Party and its élite caste meet to natter,

And, with no regard for the wretched population,

Indulge in the pleasure of sumptuous feasts fit for kings.

Our parents taught us about sharing, and protecting the weak

And the victims of injustice:

The Party vehemently promulgates

Hate, vengeance and bloody class warfare.

A dyke has broken in the hearts of the people,

The tidal wave whirls with wrath…

 

From that day forth… from the Poznan uprising,

Despite their air force,

Their heavy artillery, their nuclear missiles,

Their divisions of tanks and armoured vehicles,

Nothing will alter their nightmare obsession.

They will never know peace,

They massacred our brothers in Berlin, in Budapest,

In the Prague Spring; in Huê, Têt Mâu Thân*

In Vientiane, in Phnom Penh, in Kabul,

Religious people, intellectuals, peasants, workers, students:

They spared nobody.

They were deluded,

Believing they could drown our people in the abyss,

Trample us, terrorise us, humiliate us,

No coercion can shake Poland’s faith

Because, since the Poznan insurrection,

There has been Gdansk, Cracow, Katowice,

Solidarność, with ten million workers united,

Like the four winds from the mountains and forests,

Like the waves of the vast oceans,

Like the galaxies of the heavens,

The hearts of our brothers on the five continents of the earth,

Beat in time with the songs

Which resound day and night, from the mines, the quarries,

From the factories, the building sites, the ports and town districts,

Resonating out to railway platforms,

Press offices, universities and churches.

You, young night-duty militiaman, don’t you hear them?

Try to recognise imperialism’s real face,

The phantom of darkness who crushes our rosebuds,

Who, with brittle laughter, disregards our grievances,

O our Liberty! Our Independence! Our Hope!

 

Black April, 1975,

Plunging to their fate,

Saigon and South Viêt Nam, my native land,

Were put to death,

Boat people who almost perished on the high seas – what miracle brought me back to life?

I go to meet my imprisoned writer friends,

From Hanoi to Pekin. From Pyongyang to Lhasa,

From Belgrade to Sofia. From Havana to Bucharest.

I go to Granada, to Federico Garcia Lorca’s grave,

To Santiago, to meditate in memory of Pablo Neruda,

In Terezin, as a pilgrim, to the place whence Robert Desnos was deported.

I make my way in Paris of Victor Hugo and Paul Éluard,

I make my way in New York of the Statue of Liberty,

Despite storms, the steadfast watchwoman firmly grips

The torch of faith held fervently aloft.

My brothers, my sisters, my friends,

May I never neglect your call,

May I have the honour of echoing your voices.

 

O Polska! Polska! My Unconquerable Polska,

In the depths of your misfortune, I know you have infinite bravery,

Just like those murdered, those who died, and our unknown defenders,

My memory of those times comes back vividly,

And gives me the life force, historic millennia

Give me the peace of mind to finish an indignant poem.

You, who until now never dared defend human feelings,

Come near! Come as close as you can!

Listen to the truth of what is happening today,

Don’t keep quiet about it; don’t turn your back on it;

Don’t lower your head, you accomplices.

Listen!

ZOMO’s boots kick down doors,

The tumult of persecution, as if game were being pursued,

The furious crack of the whip and truncheon,

The grinding of teeth. The sobs of children,

The women’s cries of help for their husbands,

The shrill noise of assault tanks’ metal tracks

Ineluctably crushing.

O, the crystal limbs of innocent souls!

Your throat is blocked. You struggle. You cry out, exhausted,

You are strangled. There is laughter. Brutal !

While the showers of snow fall,

Oppressive, as in stormy weather,

Time stops. The Universe falls silent.

Yet, far off, shots crackle incessantly,

They come closer as night falls,

The night of Guernica… The night of Oradour… the night of Auschwitz,

After Czechoslavkia, and betrayed at Munich,

Follows the night of Poland.

Of this series of epoch-making tragic events,

We cannot allow ourselves to overlook any of them.

At Wujek, the enemy fired straight at our brother workers,

At Gdansk too, blood flowed as a result of Soviet bullets.

Mother from Polska! Let me dry your tears,

And share the deep wound which tears apart your heart.

I know well that I will die, once again,

With my head resting on the shoulders of my beloved brothers.

The ever-lasting fervour of Fraternity,

Reflecting the glowing halo of the Sun of truth,

Will crystallise in the bourgeoning conscience

Which will dissolve the layer of icy black blood

On the shores of the Baltic.

The blood of the innocent, victims of red fascism,

The fatal night during a state of siege, under curfew,

Is reflected by the faces of a people in mourning.

Young soldier of Polska, don’t you hear them ?

Drop by drop, with each note of his Preludes,

Chopin pours out his warm tears,

The tears of a human Love which overflowed from his heart,

They sound like cries of pain from a lost bird with a broken wing!

Also, the cheerful, familiar little brook,

Does its bubbling take on a plaintive note

When the Chopin Express approaches the mining area,

The funereal siren song replaces the tolling of the death knell,

O Heavens! Criminal atrocities touch even You

Committed by a pack of murderers, traitors to their homeland!

Brother of Polska, don’t you remember?

How many shining mirrors…

Poland belongs to the children worthy of the nation,

Warsaw signed the defeat of the Bolshevik army;

At the Vistula River they would be defeated once more.

 

On that night, in the depths of the infernal abyss,

Our faith grew. Life would prosper tomorrow,

We would return hand in hand to celebrate our reunion.

The ear of wheat, the rose: scents and beauties of the future,

Young children, no longer will you be on bended knee,

Waxing shoes,

No longer will life be lived without dignity.

No longer will Peace be depicted from behind barbed wire,

No more abject re-education camps and forced labour,

Nor the wall of shame,

A bridge of Tolerance will be re-established between men’s hearts.

Psychiatric hospitals

Will no longer preoccupy the consciences of intellectuals