Đàn Chim Việt

  

 

Chiều Thứ Ba 27-3-2018, tại Hội đồng Thành phố Toronto, 100% nghị viên hiện diện (38/38) đã bỏ phiếu chấp thuận đề nghị thượng kỳ Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ tại Kỳ đài quảng trường Nathan Phillips ở City Hall Toronto ngày Thứ Bảy 28-4-2018 nhân dịp Tưởng niệm Quốc hận 30-04.

Chào quốc kỳ song hành với hát quốc ca. Nhân dịp nầy, chúng tôi xin ôn lại nguồn gốc bản Quốc ca Việt Nam Cộng Hòa từ khi được sáng tác năm 1941 cho đến ngày nay.

Một bài hát luôn luôn gồm hai phần là nhạc và lời. Nhạc là nhịp điệu dẫn dắt bài hát. Lời là ca từ diễn ý bài hát. Thông thường trong một bài hát, nhạc là cái sườn, không thay đổi. Lời có thể thay đổi tùy ý tác giả viết ra bài hát, hay có thể thay đổi theo sáng kiến và hoàn cảnh của người sử dụng. Bài quốc ca Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) cũng thế, được thay lời nhiều lần.

Theo học giả Nguyễn-Ngu-Í trong bài “Nhớ và nghĩ về bài quốc ca Việt”, đăng trên tạp chí Bách Khoa tại Sài Gòn số 244 ngày 1-3-1967, thì nguồn gốc đầu tiên của bài quốc ca VNCH là bài “Quấc dân hành khúc” do Lưu Hữu Phước, người Cần Thơ (Nam phần), sinh viên Đại học Hà Nội, sáng tác vào giữa năm 1941 tại Hà Nội. (Chữ “Quấc” viết với chữ “â”.)

Nguyễn-Ngu-Í (1921-1979) là người đồng thời với Lưu Hữu Phước (1921-1989), đã từng làm việc chung với Lưu Hữu Phước tại Hà Nội vào giữa năm 1946. Nhờ vậy, chắc chắn Nguyễn-Ngu-Í đã nghe Lưu Hữu Phước kể lại đầy đủ lai lịch và những thay đổi của bài “Quấc dân hành khúc”.

Chẳng những thế, sống tại Hà Nội, Nguyễn-Ngu-Í có thể cũng đã được nghe cả những sinh viên Hà Nội lúc đó, kể chuyện về hoàn cảnh xuất hiện và những thay đổi của bản “Quấc dân hành khúc”. Vì vậy, hy vọng nguồn tin của Nguyễn-Ngu-Í về bản nhạc nầy là khả tín. (Để đọc tạp chí Bách Khoa và tìm bài viết của Nguyễn-Ngu-Í, xin vào (Tạp chí Bách Khoa được ‘số hóa’ toàn bộ).

Cũng theo bài báo của Nguyễn-Ngu-Í, bản nhạc nầy được chính tác giả Lưu Hữu Phước đổi tên thành “Sinh viên hành khúc” vào cuối năm 1941. Tại đại học Hà Nội, ngoài sinh viên Việt, còn có sinh viên Lào, Cao Miên và cả người Pháp nữa, nên hai sinh viên Mai Văn Bộ và Nguyễn Thành Nguyên đặt thêm lời Pháp. Bài hát bằng tiếng Pháp có tên là “La marche des étudiants”. Vua Cao Miên lúc đó là Norodom Sihanouk rất thích bản nhạc bằng tiếng Pháp nầy.

Qua đầu năm 1942, Tổng hội sinh viên Đại học Hà Nội muốn có một bản hành khúc cho riêng sinh viên đại học, nên với sự đồng ý của sinh viên Lưu Hữu Phước, Tổng hội đã mở cuộc thi đặt lời cho bản nhạc của Lưu Hữu Phước.

Hai sinh viên Trường Thuốc (Y khoa) trúng giải là Lê Khắc Thiền (nhứt) và Đặng Ngọc Tốt (nhì). Lời hai bài trúng giải hợp lại cùng với điệp khúc của bài “Sinh viên hành khúc”, thành bản “Tiếng gọi sinh viên”, bài hát chính thức của Đại học Hà Nội.

Bài hát “Tiếng gọi sinh viên” nhanh chóng được truyền tụng trong giới sinh viên, học sinh và phổ biến rộng rãi ra ngoài khuôn viên trường học. Thanh niên các giới say sưa hát bản nhạc nầy, và tự ý đổi hai chữ “sinh viên” bằng hai chữ “thanh niên”, cho phù hợp với khung cảnh xã hội bên ngoài học đường.

Dưới thời chính phủ Trần Trọng Kim từ tháng 4 đến tháng 8-1945, đoàn Thanh Niên Tiền Phong ở Nam kỳ do bác sĩ Phạm Ngọc Thạch lãnh đạo, chọn bài “Tiếng gọi thanh niên” làm đoàn ca của đoàn. (Bác sĩ Nguyễn Lưu Viên, “Những kỷ niệm với bài quốc ca của Việt Nam Cộng Hòa”.  link chết xin xem TỪ BÀI CA“ĐÁP LỜI SÔNG NÚI” CỦA TRÚC HỒ: NHÌN LẠI HAI BÀI “TIẾNG GỌI SINH VIÊN” CỦA LƯU HỮU PHƯỚC VÀ “TIẾN QUÂN CA” CỦA VĂN CAO

Năm 1945, mặt trận Việt Minh, tổ chức ngoại vi của đảng Cộng Sản Đông Dương cướp chính quyền và lập ra nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ngày 2-9-1945. Quốc ca của chế độ cộng sản là bản “Tiến quân ca” do Văn Cao sáng tác. Lúc đầu, bài hát nầy có câu rất sắt máu: “… Thề phanh thây uống máu quân thù”. Ngày nay được đổi thành “… Vì nhân dân chiến đấu không ngừng…”

Chiến tranh Việt Minh-Pháp bùng nổ tối 19-12-1946. Trong lúc chiến tranh xảy ra, Việt Minh cộng sản tiếp tục thi hành kế hoạch giết tiềm lực, tiêu diệt tất cả những thành phần theo chủ trương quốc gia dân tộc, không theo Việt Minh. Những thành phần nầy bị dồn vào thế phải quy tụ chung quanh cựu hoàng Bảo Đại, và vì sống còn, chẳng đặng đừng liên kết với Pháp chống Viêt Minh. Mặt khác, Pháp chiếm các thành phố và vùng phụ cận, đánh đuổi Việt Minh chạy về nông thôn, hay lên rừng núi. Pháp cần tổ chức hành chánh ở những vùng Pháp chiếm được, nên cần một giải pháp chính trị mới. Vì vậy, Pháp cũng muốn nói chuyện với cựu hoàng Bảo Đại.

Do nhu cầu từ cả hai phía, phía những nhà chính trị theo chủ trương dân tộc và phía Pháp muốn thiết lập một cơ chế hành chánh mới, cao ủy Pháp Emile Bollaert tại Đông Dương mời cựu hoàng Bảo Đại hội kiến ngày 6-12-1947, trên chiến hạm Duguay Trouin, thả neo trong vịnh Hạ Long, để tìm kiếm một giải pháp chính trị cho tình hình lúc bấy giờ. Hai bên đi đến thông cáo chung là sẽ cùng nhau thương thuyết để Pháp trao trả độc lập cho Việt Nam.

Mở đầu cuộc vận động, cựu hoàng Bảo Đại qua Pháp tiếp tục thương thuyết. Khi về lại Hồng Kông, cựu hoàng thảo luận thêm với các chính khách quốc gia và giao cho thiếu tướng Nguyễn Văn Xuân thành lập chính phủ trung ương lâm thời, nhằm thảo luận với Pháp một tạm ước về thống nhất đất nước. Nguyễn Văn Xuân đã từng được Hồ Chí Minh mời vào chính phủ đầu tiên năm 1945, nhưng ông Xuân từ chối.

Đối đầu với Việt Minh cộng sản, thiếu tướng Nguyễn Văn Xuân thành lập chính phủ Trung ương Lâm thời Việt Nam tại Sài Gòn ngày 1-6-1948, ban hành “Pháp quy tạm thời” (Statut Provisoire), chọn bài “Tiếng gọi thanh niên” làm quốc ca. (Trần Văn Đôn, Việt Nam nhân chứng, California: Nxb. Xuân Thu, 1989, tr. 75.) Bản quốc ca bắt đầu bằng câu “Này thanh niên ơi …” (Hỏi chuyện tại Montreal ngày 2-12-2017 bác sĩ Từ Uyên, tú tài năm 1951 và giáo sư Bùi Tiến Rủng, tú tài năm 1953. Cả hai ông lúc đó là sinh viên Đại học Hà Nội, thuộc lòng bản quốc ca nầy. Hai ông xác nhận quốc ca lúc đó bắt đầu bằng câu: “Này thanh niên ơi …”)

Sau chính phủ Trung ương Lâm thời, cựu hoàng Bảo Đại tiếp tục thương thuyết và ký kết tại Paris với tổng thống Pháp là Vincent Auriol hiệp định Élysée ngày 8-3-1949, đưa đến việc thành lập chính thể Quốc Gia Việt Nam do Bảo Đại làm quốc trưởng, chống Việt Minh cộng sản.

Chính thể Quốc Gia Việt Nam cũng dùng bài “Tiếng gọi thanh niên” làm quốc ca. Hiệp định Genève ngày 20-7-1954 chia hai đất nước ở vĩ tuyền 17. Chính thể Quốc Gia Việt Nam cai trị miền Nam Việt Nam. Lúc đó, quốc trưởng Bảo Đại bổ nhiệm Ngô Đình Diệm làm thủ tướng. Ông Diệm nhậm chức ngày 7-7-1954 (Ngày Song thất). Sau khi ổn định tình hình, thủ tướng Diệm tổ chức trưng cầu dân ý ngày 23-10-1955. Kết quả quốc trưởng Bảo Đại bị lật đổ, thủ tướng Ngô Đình Diệm lên làm tổng thống, đổi Quốc Gia Việt Nam thành Việt Nam Cộng Hòa.

Quốc hội Lập hiến Việt Nam Cộng Hòa được bầu ngày 4-3-1956. Trong khi soạn thảo hiến pháp, Quốc hội dự tính tuyển chọn quốc kỳ và quốc ca cho chính thể mới, nhưng chưa chọn được lá cờ và bản nhạc nào ưng ý, nên ngày 31-7-1956, Quốc hội quyết định giữ quốc kỳ và quốc ca cũ. (Đoàn Thêm, Hai mươi năm qua, California, Nxb. Xuân Thu tái bản, không đề năm, tr. 200.)

Bản quốc ca “ Tiếng gọi thanh niên” được đổi thành “Tiếng gọi công dân”, và mở đầu bằng câu : “Này công dân ơi! Quốc gia đến ngày giải phóng…” Đồng thời thay đổi khá nhiều lời so với bài “Tiếng gọi thanh nhiên”. (Những người lớn tuổi, nhứt là những vị di cư sau hiệp định Genève, cho biết sau khi vào Nam Việt Nam năm 1954 một thời gian, thì mới có bài “Tiếng gọi công dân.)

Sau đó, Quốc hội lập hiến mở cuộc thi vẽ quốc kỳ và thi sáng tác quốc ca. Có tất cả 350 mẩu cờ và 50 bản nhạc được đề nghị. Ngày 17-10-1956, một lần nữa, Quốc hội lập hiến tuyên bố không chọn được bản quốc ca hay quốc kỳ mới, và quyết định giữ nguyên quốc kỳ và quốc ca cũ làm biểu tương. (Đoàn Thêm, sđd. tr. 203.) Sau đây là nguyên văn lời bản “Tiếng gọi công dân” thời Việt Nam Cộng Hòa:

Này công dân ơi! Quốc gia đến ngày giải phóng

Đồng lòng cùng đi hy sinh tiếc gì thân sống.

Vì tương lai quốc dân, cùng xông pha khói tên,

Làm sao cho núi sông, từ nay luôn vững bền.

Dù cho thây phơi trên gươm giáo,

Thù nước, lấy máu đào đem báo.

Nòi giống lúc biến phải cần giải nguy,

Người công dân luôn vững bền tâm trí.

Hùng tráng quyết chiến đấu làm cho khắp nơi

Vang tiếng người nước Nam cho đến muôn đời!

Công dân ơi! Mau hiến thân dưới cờ!

Công dân ơi! Mau làm cho cõi bờ

Thoát cơn tàn phá, vẻ vang nòi giống

Xứng danh nghìn năm giòng giống Lạc Hồng!

Như thế, bài hát “Quấc dân hành khúc” xuất hiện giữa năm 1941, đổi thành “Sinh viên hành khúc” cuối năm 1941, rồi “Tiếng gọi sinh viên” đầu năm 1942. Lúc đó, tinh thần yêu nước của dân chúng trên toàn quốc dâng lên rất cao sau cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quốc Dân Đảng năm 1930. Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước và hai tác giả đặt lời là Lê Khắc Thiền và Đặng Ngọc Tốt là những sinh viên yêu nước, sáng tác bản nhạc nầy trong tinh thần yêu nước dạt dào, và chưa theo phong trào Việt Minh cộng sản.

Năm 1945, Lưu Hữu Phước cũng như một số thanh niên khác, vì lòng yêu nước, nghe theo lời phỉnh gạt, gia nhập phong trào Việt Minh, sinh hoạt trong ngành văn hóa, nghệ thuật, tuyên truyền. Vì thuộc thành phần trí thức tiểu tư sản miền Nam, Lưu Hữu Phước không được cộng sản trọng dụng, cũng chẳng giữ một chức vụ gì quan trọng dưới chế độ cộng sản ở Bắc Việt Nan sau hiệp định Genève năm 1954.

Trong chiến tranh 1954-1975, do nhu cầu tuyên truyền và lôi kéo dân chúng Nam Việt Nam, cộng sản Bắc Việt Nam đề cử Lưu Hữu Phước đảm nhiệm chức vụ bộ trưởng bộ Thông tin Văn hóa năm 1965 trong chính phủ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, một công cụ bù nhìn để tuyên truyền của đảng Cộng Sản, gồm những người gốc miền Nam, kể cả những người không vào đảng Cộng Sản.

Sau năm 1975, “được chim bẻ ná, được cá đá lờ”, đảng Cộng Sản (lúc đó còn tên là đảng Lao Động) giải tán ngay mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, trong đó có bộ trưởng Lưu Hữu Phước. Suốt đời Lưu Hữu Phước bị đảng cộng sản lợi dụng, làm con cờ tuyên truyền, chỉ được cộng sản giao cho làm công tác văn nghệ, tức chỉ làm văn công cho cộng sản mà thôi.

Cần chú ý đến các điểm trên đây để thấy rằng bản nhạc được dùng làm quốc ca Quốc Gia Việt Nam từ năm 1948, rồi quốc ca Viêt Nam Cộng Hòa từ sau năm 1954, là tâm huyết của những sinh viên yêu nước vào những năm 1941, 1942, chứ lúc đó những tác giả nầy không phải là những người theo cộng sản.

Năm 1975, Việt Nam Cộng Hòa bị cộng sản tạm thời cưỡng chiếm. Bản quốc ca “Tiếng gọi công dân” và lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ cùng với người Việt di tản ra hải ngoại, được hát vang khắp nơi trên thế giới. Chẳng những thế, ngày nay bản quốc ca nầy cùng với lá Cờ Vàng bắt đầu sống lại ở trong nước, chẳng những ở Nam Việt Nam mà cả ở Bắc Việt Nam, như là biểu tượng của tự do dân chủ mà toàn dân Việt Nam đang khao khát.

Xin kính mời quý vị đồng hương Toronto và vùng phụ cận tham dự đông đảo LỄ CHÀO CỜ VIỆT NAM CỘNG HÒA vào lúc 12 giờ trưa THỨ BẢY 28-4-2018 tại City Hall Toronto trong buổi Tưởng niệm Quốc hận năm nay, và cùng nhau hát bản quốc ca yêu quý và thiêng liêng của chúng ta.

TRẦN GIA PHỤNG

(Toronto 18-04-2018)

Phiên bản được nghe năm 2007

Đến năm 2016 phiên bản được nghe trong SBTN TV hay trong Asia Entertainment thì đoan đầu “Này công dân ơi quốc gia đến ngày giải phóng” đã được đổi thành “Này công dân ơi đứng lên đáp lời sống núi”

 

TỪ BÀI CA “ĐÁP LỜI SÔNG NÚI” CỦA TRÚC HỒ: NHÌN LẠI HAI BÀI “TIẾNG GỌI SINH VIÊN” CỦA LƯU HỮU PHƯỚC VÀ “TIẾN QUÂN CA” CỦA VĂN CAO

 

17 Tháng Mười Một 2011

trucho_2-content

 Nhạc sĩ Trúc Hồ

Như một hiện tượng bất ngờ của lịch sử, trong những tháng cuối hè, đầu thu năm 2011, những biến cố liên hệ tới việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam trước nạn xâm lấn của người Tàu đã đồng loạt và liên tiếp xẩy ra không riêng ở trong nước mà luôn cả ở Hải Ngoại và rộng hơn nữa là ở khắp nơi có ngưòi Việt cư ngụ. Biển Đông cùng với các Quần Đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở ngoài khơi, các cao điểm ở biên giới phía bắc, trên đất liền, các khu rừng đầu nguồn, Thác Bản Giốc, Ải Nam Quan, các khu kỹ nghệ mới do người Tàu trúng thầu xây dựng dọc theo lãnh thổ của quốc gia với hàng chục ngàn, có thể tới hàng trăm ngàn và hơn nữa nhân công họ mang từ Trung Quốc sang đã trở thành đề tài cho các cuộc biểu tình tranh đấu, các cuộc thảo luận hay phản đối chính sách của nhà cầm quyền Cộng Sản Hà Nội cùng đối tác của họ là Trung Hoa Cộng Sản. Công hàm mang tên và chữ ký của ông Phạm Văn Đồng, người đã nắm chức thủ tướng trong chính quyền Cộng Sản Việt Nam lâu nhất trong lịch sử, đã trở thành trọng tâm của sinh hoạt báo chí và truyền thông cũng như các cuộc tranh luận của không riêng người Việt mà còn cả quốc tế nữa. Tội danh bị coi như là bán nước của ông thủ tướng họ Phạm và những kẻ đồng lõa với ông cũng như Đảng Cộng Sản Việt Nam sau một thời gian dài được giấu kín, đến thời điểm này đã được những người liên hệ thú nhận và vụng về bào chữa. Trong ít ra là mười tuần lễ Hà Nội và Saigon với những cuộc biểu tình của ngưòi dân thuộc đủ mọi thành phần, đặc biệt là của những nhà trí thức và những chuyên viên hàng đầu của chế độ đã trở thành hai trung tâm được người Việt từ mọi nơi hướng về và được giới quan sát quốc tế hàng ngày theo dõi.

Trong sinh hoạt vô cùng sôi bỏng kể trên, qua sinh hoạt văn nghệ và đấu tranh của người Việt ở Hải Ngoại, một bài hát được làm từ trước, từ năm 2008, đột nhiên được phổ biến rộng rãi ở khắp nơi trên thế giới, rồi theo những làn sóng truyền thanh và truyền hình, quốc tế cũng như của người Việt, những mạng điện tử… truyền về trong nước và được chính những người biểu tình ở trong nước cùng nhau hát rồi được các khán giả ngoài nước thích thú hát theo. Đây quả là một hiện tượng bất ngờ chỉ có thể xẩy ra ở thời đại điện tử. Nhạc Sĩ Trúc Hồ và bài Đáp Lời Sông Núi của ông bỗng nhiên trở nên quen thuộc đối với mọi người dù người đó là một cá nhân ngồi trước máy truyền hình hay máy vi tính ở nhà riêng của mình hay một đám đông tụ họp với nhau chống “Trung Cộng xâm lược và Việt Cộng bán nước” ở khắp các vùng trời Á, Âu, Mỹ, Úc, đặc biệt là các cuộc biểu tình chung quanh ngày 14 tháng 9 năm 2011, ngày nhiều người chính thức gọi là ô nhục, ô nhục hơn tất cả những ngày ô nhục khác trong lịch sử dân tộc. Chính nghĩa giành độc lập và giữ nước mà Hồ Chí Minh đề cao và người Cộng Sản từ hơn sáu mươi năm tự coi là của riêng mình và là điều mà Hồ Chí Minh coi như là “ý chí sắt đá”, “truyền thống quý báu đã có từ thời các vua Hùng” bỗng nhiên không còn nữa.[1] Tháng 9 năm 2011 mọi chuyện đã hiện ra trái ngưọc. Tên của Thủ Tướng Trần Văn Hữu của Quốc Gia Việt Nam, tên của các Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu lại được nhắc đến cùng với tên của Hải Quân Trung Tá Ngụy Văn Thà cùng với 74 chiến hữu của ông, sau này thêm 64 chiến sĩ Hải Quân Việt Nam nữa ở Trường Sa.

Câu hỏi được đặt ra là tại sao bài Đáp Lời Sông Núi[2] của Trúc Hồ lại có thể vượt không gian và đặc biệt là đường ranh Quốc – Cộng để không riêng được mọi người ưa thích mà còn được hát lên như vậy? Câu hỏi này đã khiến cho những người từng theo dõi sự xuất hiện và phổ biến của những bài hùng ca đã xuất hiện từ cả hơn nửa thế kỷ trước và đã từng làm dậy lên tình cảm và lòng ái quốc của toàn thể dân tộc nhớ tới những bài hát của thời thập niên bốn mươi của thế kỷ trước. Trong số những bài này có bài Tiếng Gọi Sinh Viên hay Sinh Viên Hành Khúc của Lưu Hữu Phước và các bạn của ông ở Đại Học Hà Nội . Tiếng Gọi Sinh Viên sau đã trở thành Tiếng Gọi Thanh Niên, đoàn ca của tổ chức Thanh Niên Tiền Phong ở Miền Nam trong nhũng ngày đầu chống Pháp, rồi sau đó thành Quốc Ca của Quốc Gia Việt Nam thời Quốc Trưởng Bảo Đại để cuối cùng là của Việt Nam Cộng Hoà và hiện tại là của Người Việt Hải Ngoại. Sự liên tưởng này không phải chỉ là bắt nguồn từ hiện tượng được phổ biến nhanh chóng của hai bài hát mà từ cái tên của bài hát của Trúc Hồ: Đáp Lời Sông Núi. Bốn chữ này ai cũng phải nghĩ là được lấy từ câu đầu của bài Quốc Ca của miền Nam: “Này công dân ơi! Đứng lên đáp lời sông núi” mà Trúc Hồ hồi còn đi học ở quê nhà của ông không tuần nào là không hát, ít ra là một lần. Sau này vượt biên ra Hải Ngoại chúng đã trở thành nỗi nhớ nhung không bao giờ phai nhạt, dưới hình thức này hay hình thức khác và đã được phản ảnh qua những ca khúc của ông. Vì vậy khi tìm hiểu Đáp Lời Sông Núi, người ta không thể không tìm hiểu Tiếng Gọi Sinh Viên và tìm hiểu Tiếng Gọi Sinh Viên, người ta không khỏi tìm hiểu Tiến Quân Ca vì hai bài sau đã trở thành Quốc Ca của hai chế độ đối nghịch nhau trong suốt thời gian từ sau năm 1945 cho đến những ngày hiện tại. Trong bài này người việt sẽ tìm hiểu ba bài hát qua ba phần chính yếu là tác giả và hoàn cảnh sáng tác, nội dung của các bài hát và cuối cùng là đối tượng và khả năng lôi cuốn của những tác phẩm này.

A. Tác giả và hoàn cảnh sáng tác

 I. Lưu Hữu Phước

Lưu Hữu Phước là người Miền Nam. Ông ra Hà Nội “du học” vào mùa “thu năm 1940” sau khi đã học các truờng Tiểu Học Ô Môn, Trung Học Cần Thơ rồi Trung Học Petrus Trương Vĩnh Ký và tất nhiên là đã đậu tú tài toàn phần. Lý do là vì ở Việt Nam thời Pháp cả xứ Dông Dương chỉ có một trường đại học ở Hà Nội. Sự ra Hà Nội học của một thanh niên Nam Kỳ ở thòi này là một giai đoạn mới trong đời Lưu Hữu Phước. Sau này trong hồi ký của ông, Lưu Hữu Phước viết: “Cũng như một số bạn bè, tôi đi Hà Nội với cảm xúc của một người con đi xa trở về quê nhà. Tình yêu nước dạt dào trong tim chúng tôi.”[3] “Với tâm trạng đó, chúng tôi cảm thấy mình ra Bắc như về thăm quê cũ. Những tên địa phương như sông Hồng, núi Ba Vì, núi Tam Đảo, Ải Chi Lăng, Cửa Bạch Đằng… là những danh từ mầu nhiệm, và mầu niệm hơn nữa là những đền đài lịch sử như Lý Bát Đế, Đồng Nhân, Cổ Loa, Phù Đổng, mỗi di tích giống như một quyển sử dân tộc.”[4]. Từ những khám phá mới bằng nội tâm và bằng tình cảm kèm theo với phong trào và cuộc sống tươi trẻ của giới thanh niên, sinh viên, học sinh và hướng đạo đương thời và cùng với bạn bè, Lưu Hữu Phước đã sáng tác những bài Ta Cùng Đi, Người Xưa Đâu Tá, Bạch Đằng Giang, Ải Chi Lăng, Hận Sông Hát tức Hồn Tử Sĩ, Hội Nghị Diên Hồng… và tất nhiên Tiếng Gọi Sinh Viên ở thời điểm này. Tất cả cho đến khi bài này được viết và có lẽ chừng nào lịch sử Việt Nam còn, tất cả những bài hát này vẫn còn giữ nguyên được giá trị ban đầu của chúng[5]. Nên nhớ là trong thời gian này quân Nhật đã kéo vào Đông Dương và đã chia sẻ quyền hành với người Pháp. Toàn Quyền Đông Dương, Đô Đốc Decoux do nhu cầu ngăn chặn ảnh hưởng của người Nhật, đồng thời cũng để làm lệch hướng đấu tranh của giới trẻ Việt Nam thời đó đã tỏ ra cởi mở hơn. Giới thanh niên, đặc biệt là học sinh, sinh viên được chú ý tới hơn và phần nào được đãi ngộ khá hơn. Cả một phong trào thanh niên dưới sự lãnh đạo của Hải Quân Đại Tá Ducoroy đã được phát động từ Bắc chí Nam và luôn cả Miên, Lào. Lịch sử, tinh thần ái quốc của người Việt Nam cũng được khai thác và cổ võ. Vai trò của Hoàng Đế Nam Triều, lúc đó cũng được đề cao. Những bài hùng ca lịch sử nhờ đó đã có cơ hội xuất hiện và phổ biến. Ngườì ta có thể, theo một khuynh hướng tự nhiên coi những biện pháp này của người Pháp là có thâm ý không tốt, nhưng dù thế nào đi chăng nữa nó đã mở đầu cho một sinh hoạt mới của tuổi trẻ Việt Nam và đã ảnh hưởng tới nhiều phạm vi khác về sau này.

Theo như chính Lưu Hữu Phước, bài Tiếng Gọi Sinh Viên đã được sáng tác vào một đêm tháng tư năm 1941 do ông khởi đầu, sau đó được các bạn cùng phòng “chúng tôi gọt giũa” và “cùng hát vang”[6]. Lời đầu tiên của bài này, có lẽ chịu ảnh hưỏng của những tuyên truyền về “Khởi Nghĩa Bắc Sơn” nên đã nặng tính tranh đấu và hận thù với những từ ngữ như lầm than, đau khổ, loài muông thú, hút máu, cửa nhà tan rã… và văn phong còn thô kệch vụng về, sau này mới được mọi người sửa lại. Cũng chính Lưu Hữu Phước kể tiếp: “bài hát bí mật của chúng tôi được anh em lấy làm bài hát sinh viên công khai. Anh em làm lại lời ca, và sau nhiều lần sửa đi sửa lại và đấu tranh với Sở kiểm duyệt, phong trào sinh viên đã có bài hát của mình tức là bài Tiếng gọi sinh viên (Lời ca của Lê Khắc Thiều và Đặng Ngọc Tốt) khi phong trào lan rộng bài hát được nhân dân tự động đổi là Tiếng gọi thanh niên.”[7] Nhưng đó là theo Lưu Hữu Phước, theo những tác giả khác trong đó có Giáo Sư Nguyển Ngọc Huy thì hơi khác. Dẫn theo lời của Bác Sĩ Nguyền Tôn Hoàn, đương thời là Trưởng Ban Âm Nhạc của Tổng Hội Sinh Viên Đại Học Đông Dương tức Đại Học Hà Nội, Giáo Sư Huy cho biết là nhân dịp Tổng Hội tổ chức một đêm ca nhạc vào ngày 15 tháng 3 năm 1942 tại Đại Giảng Đường của nhà trường, nhằm lấy tiền giúp các bệnh nhân nghèo ở các bệnh viện, nơi các sinh viên y và dược khoa thực tập, Tổng Hội lựa một bài ca lấy tên là Sinh Viên Hành Khúc với tiếng Pháp là Marche des Étudiants. Lưu Hữu Phưóc đã đưa cho Bác Sĩ Hoàn một số bản nhạc do ông soạn và bài Tiếng Gọi Sinh Viên đã được lựa. Tiếp theo là một ủy ban sửa hay soạn lại lời ca gồm có các ông Đặng Ngọc Tốt, Mai Văn Bộ, Phan Thanh Hoà, Huỳnh Văn Tiểng, Hoàng Xuân Nhị, Nguyễn Tăng Nguyên. Lời ca mà người ta có sau này là của tập thể của ủy ban sinh viên này.[8] Sau ngày 15 tháng 3, là mùa hè năm đó một đại lễ mãn khoá đã được tổ chức tại nhà hát lớn của thành phố, có Toàn Quyền Decoux và các quan chức cao cấp Pháp-Việt đến dự và khi ban nhạc của Hải Quân Pháp cử hành bài Sinh Viên Hành Khúc này, tất cả mọi ngườì, kể cả Toàn Quyền Decoux, đều đứng dậy.[9] Lưu Hữu Phước đã không nói tới những buổi lễ này dù cho chúng là những danh dự mà một nhạc sĩ bình thường phải coi là một niềm hãnh diện. Ông cũng không nói tới hai người nữ sinh viên là Nguyễn Thị Thiều, sau này là vơọ của Bác Sĩ Nguyễn Tú Vinh và Phan Thanh Bình, sau này là Bà Nguyễn Tôn Hoàn, là những ca sĩ đã hát bài của ông đêm tác phẩm của ông được chính thức ra mắt tập thể sinh viên và công chúng thời ấy. Phải chăng, khi viết hồi ký, ông đã sợ một điều bất ổn nào đó khi nói tới những vinh dự mà phía những người không phải là Cộng Sản dành cho ông và tác phẩm của ông, lúc bấy giờ và sau này khi Tiếng Gọi Sinh Viên trở thành Tiếng Gọi Thanh Niên, Tiếng Gọi Công Dân rồi Quốc ca của phía Người Việt Quốc Gia. Tất cả đều không được ông nhắc tới trong hồi ký của ông, ngay cả tên của Tổ Chức Thanh Niên Tiền Phong. Về phía Người Việt Quốc Gia, từ các nhà lãnh đạo Thanh Niên Tiền Phong đến Bác Sĩ Nguyễn Tôn Hoàn, người đã đề nghị chọn Tiếng Gọi Sinh Viên làm quốc ca cho Chính Phủ Quốc Gia đầu tiên do Cựu Hoàng Bảo Đại thành lập và lãnh đạo và những người liên hệ không thể không suy nghĩ kỹ càng và không có lý khi làm quyết định này. Lưu Hữu Phước không phải là tác giả duy nhất của bài Tiếng Gọi Sinh Viên và bài này khi được ra mắt công chúng không những đã trở thành sở hữu chung của tổ chức sinh viên hồi ấy mà, dưới danh xưng chính thức là Sinh Viên Hành Khúc, còn là biểu trưng cho tinh thần và ưóc nguyện của toàn thể giới thanh niên đương thời. Từ Hà Nội nó đã được phổ biến mạnh mẽ ra toàn quốc, đặc biệt là ở miền Nam, ở Saigon và ở các tỉnh song song với các phong trào thanh niên thể thao Ducoroy, Hướng Đạo…Phải đọc những hồi ký hay những lời kể lại của các nhân vật đã từng sống ở miền Nam và đã từng tham gia hay bị lôi cuốn vào phong trào này hay của chính Lưu Hữu Phước người ta mới thấy được tầm phổ biến và sự quan trọng của bài Sinh Viên Hành Khúc, cũng như là các bài Bạch Đằng Giang, Lên Đường, Ải Chi Lăng… trong sinh hoạt thanh niên thời bấy giờ. Gió Mùa Đông Bắc của Bác Si Trần Ngươn Phiêu, “Nhớ Quê Hương” của Nguyễn Minh Hoài Việt, “Hồi Ký “của Bác Sĩ Nguyễn Tôn Hoàn và sau này là các bài viết của Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy và của Giáo Sư Phạm Hồng Đảnh… đã nói lên điều đó. Tinh thần của những sinh hoạt này cho nguời ta thấy rõ một ý thức mới về sự thống nhất thể hiện qua sự trực tiếp khám phá ra qua những cuộc thăm viếng tiếp những di tích của lịch sử oai hùng của dân tộc của các sinh viên gốc miền Nam ở Đại Học Hà Nội, qua những cuộc thăm viếng tiếp những di tích ở chung quanh thành phố Hà Nội trong những năm đầu của thập niên bốn mươi của thế kỷ trước, đã thành hình và đã trở thành căn bản của các cuộc đấu tranh của toàn thể dân tộc Việt Nam trong những năm kế tiếp. Độc lập luôn luôn phải đi đôi với thống nhất, bắt đầu là thống nhất lãnh thổ sau đó là thống nhất tinh thần dân tộc mà cả hai phía Cộng Sản và Quốc Gia đều đề cao không riêng trong sinh hoạt chính trị và quân sự mà luôn cả trong giáo dục, văn hóa và nghệ thuật nữa.

II. Trúc Hồ

 Cũng giống như Lưu Hữu Phước, Trúc Hồ cũng sở trường về các bài ca lịch sử mang dấu vết của thời đại mình đang sống. Từ Bên Em Đang Có Ta (lời của Trầm Tử Thiêng), Một Ngày Việt Nam (lời của Trầm Tử Thiêng),Việt Nam Niềm Nhớ (lời củaTrầm Tử Thiêng), Cám Ơn Anh (lời của Trầm Tử Thiêng), Con Dường Việt Nam (lời của Anh Bằng), Con Rồng Việt Nam (lời của Việt Dũng), Thiên Thần Trong Bóng Tối, Đáp Lời Sông Núi… Trúc Hồ cũng đã cống hiến cho đám đông người hát và người nghe nhiều bài được họ nồng nhiệt đón nhận. Và cũng giống như Lưu Hữu Phước với Tiếng Gọi Sinh Viên, Trúc Hồ, với Đáp Lời Sông Núi, cũng có một bài kêu gọi anh em, đồng bạn của mình. Bài hát được phổ biến nhanh chóng từ một nơi xa xôi ở Hải Ngoại lời ca dội ngưọc trở lại quê hương Việt Nam của tác giả. Nhưng khác với Lưu Hữu Phước, Trúc Hồ không có đưọc sự may mắn của Lưu Hữu Phước. Sinh ra và lớn lên trong thời Pháp Thuộc nhưng Lưu Hữu Phước vẫn được sống một tuổi thơ an bình, hạnh phúc. Khi lớn lên ông lại được cha mẹ nuôi cho ăn học đầy đủ ở khắp các trường danh tiếng ở miền Nam rồi sau đó ra Hà Nội “du học”. Ở Hà Nội ông đã có những ngày thật đẹp và thật phong phú cho một thanh niên mới lớn, từ lâu khát khao trở về với quá khứ dân tộc qua những buổi du ngoạn cùng với các bạn đồng hương của mình trong những ngày nghỉ. Trúc Hồ trái lại chỉ có một tuổi thơ là tương đối hạnh phúc, được sống với cha mẹ, được cắp sách đến trường trong một nước Việt Nam độc lập và độc lập hoàn toàn ít ra là trong phạm vi giáo dục như bất cứ một đứa trẻ nào khác, dù cho đất nước của ông lúc này đã bị chia đôi và đang trải qua một thời gian chiến tranh khốc liệt nhất trong lịch sử. Sau này trong bài Thiên Thần Trong Bóng Tối, ông đã ghi lại:

“Từ khi tôi chào đời, bập bẹ hai tiếng Việt Nam. Yêu quê hương qua từng trang sách, Hùng Vương, Phù Đổng rạng ngời.”

Biến cố Tháng Tư 1975 đã cướp đi tất cả. Trường cũ, thày cô ngày trước không còn như xưa nữa. Ngay cả cái tên trường ông theo học, Trường Petrus Trương Vĩnh Ký thân yêu, quen thuộc và là niềm hãnh diện của toàn thể dân chúng miền Nam cũng đã bị loại bỏ và bị thay thế bằng một cái tên Lê Hồng Phong lạ hoắc. Nhưng cũng may là, ngoài Trường Petrus Ký, Trúc Hồ còn có một trường khác, hay nhiều “trường” khác và nhiều thày khác mà ông không những cũng yêu mến không kém mà còn gắn bó hơn, bằng cách này hay cách khác theo học suốt đời. Đó là những trường nhạc, nơi ít ra ba vị thày đã không những hướng dẫn ông về chuyên môn mà còn giúp ông đứng vững để tiến tới trong thời kỳ dễ bị khủng hoảng và hư hỏng nhất của đời người. Đó là các nhạc sĩ và giáo sư âm nhạc nổi tiếng của miền Nam đương thời, các nhạc sĩ Nghiêm Phú Phi, Hùng Lân và Đại Tá Trần Văn Tín, Chỉ Huy Trưởng ngành quân nhạc của Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà, sau này là nhiều thày cô khác, sau năm 1975, từ miến Bắc vào như Chí Vũ, Cao Lê Thuần và các thày mà bây giờ ông chi còn nhớ tên mà không nhớ họ như Thày Dung, Cô Diệu…, mà ông luôn luôn nhắc tới với những lời trìu mến, biết ơn.[10] Tất nhiên là còn nhiều vị thày hay các bậc đàn anh hay bạn bè khác. Nói cách khác, Trúc Hồ có rất nhiều thày, thày chính thức hay thày ở ttrường đời. Đây là điểm thứ hai Trúc Hồ may mắn hơn Lưu Hữu Phuớc vì Lưu Hữu Phước khi học tân nhạc chỉ là tự học qua sách vở hay bạn bè. Cuộc sống thiếu êm đềm của Trúc Hồ không ngừng ớ đó. Nó vẫn tiếp tục với cuộc vượt biên tị nạn của ông, vượt biên theo đúng nghĩa vượt biên giới của nó. Ở đây là vượt biên giới Việt Miên với tất cả những gì nguy hiểm và đầy hãi hùng của cuộc phiêu lưu, vô cùng liều lĩnh và vô vọng này . Tiếp theo là những ngày sống trong trại tị nạn, đúng ra là trại tù ở biên giới Thái Lan-Căm Bốt như là một trẻ em vị thành niên đi một mình, một “unaccompanied child”trong trại NW-9. Sau đó là cuộc sống không người thân ở bên Mỹ.[11] Tìm hiểu những bài hùng ca của Trúc Hồ, người ta cần phải để ý tới những yếu tố liên hệ tới cuộc sống đầy bão tố của riêng ông, đồng thời cũng là của toàn thể miền Nam và nhân dân miền Nam trong suốt thời gian này và những kinh nghiệm của riêng ông, những kinh nghiệm mà không phải bất cứ người tị nạn Việt Nam nào cũng có, ở trong nước cũng như ở Hải Ngoại. Bên Em Đang Có Ta là một trong số những kinh nghiệm đó: 

Bao nhiêu em bé thơ, như nụ hoa, dưới mặt trời

Cười hồn nhiên tung tăng hát vang, mừng nắng tươi.

Bao nhiêu em bé thơ, như nụ hoa dưới mặt trời,

Rời lòng nôi trong đêm gió mưa, ra biển khơi.

 

Mẹ yêu em thiết tha hơn mùa xuân trong cuộc đời,

Chờ nhìn con theo hoa hướng dương, tìm nắng tươi.

Cha yêu em thiết tha, mang gửi con cho tình người,

Mặc đại dương mênh mông khoác lên thân nhỏ nhoi.

 

Bên em đang có ta, hát về em tương lai xót xa,

Hát giùm em cơn mơ thiết tha, giấc mơ tuổi hoa.

Bên em đang có ta, thống thiết kêu vang lương tâm thế gian

Cứu vớt em rời khỏi ngày u ám, giữa trại giam.

Khóc trong lầm than, Khóc trong trại giam.

Khi con tim thế nhân, chưa thờ ơ, chưa lạnh lùng,

Thì cùng nhau đêm nay hát lên, lời hát chung.

Cho em tôi héo hon, đang ngửa tay xin tình người,

Dòng lệ rơi trên đôi má khô, trong lẻ loi.

 

 Tại sao nhạc của Trúc Hồ lại vừa bi thảm, vừa hùng mạnh, vừa nồng nàn, tha thiết, xót xa và nhiều hấp lực đối với đám đông như vậy? Bỏ qua những yếu tố này người ta không thể nào cắt nghĩa được. Phải nhìn sâu vào hoàn cảnh và tâm tư của chú bé unaccompanied Trúc Hồ vào thời điểm lúc ở trong trại, được chính mắt thấy, chính tai nghe những thảm cảnh bi đát của những em còn nhỏ tuổi hơn mình và của thày giáo nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng cũng vượt biên tị nạn như các em người ta mới phần nào thông cảm được.

III. Văn Cao

Tuy nhiên, so với Trúc Hồ, Văn Cao, tác giả của Tiến Quân Ca, sau này là Quốc Ca của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và hiện thời là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, còn bất hạnh hơn nhiều. Văn Cao, như ai cũng biết và cũng đều phải công nhận, mãi mãi là một trong những thiên tài về âm nhạc của Việt Nam. Ông đã nổi tiếng từ lâu trước khi viết Tiến Quân Ca qua những bài hát mà không riêng gì đương thời, mà luôn cả trong hiện tại, sáu bảy chục năm đã trôi qua, rất ít người Việt Nam yêu nhạc nào mà không biết và không yêu mến. Không những thế ông còn là một nhà thơ và một họa sĩ tài hoa nữa. Có điều hoàn cảnh đã đưa ông đến việc sáng tác Tiến Quân Ca là cả một bi kịch thê thảm nhất và đáng thương nhất trong lịch sử nghệ thuật của dân tộc Việt Nam. Văn Cao đã không tự mình sáng tác theo cảm hứng riêng của mình mà vì đã nhận lời của một cán bộ cao cấp của Đảng Cộng Sản để làm bài này, rồi cũng từ đó ông vướng mắc vào hết hệ lụy này sang hệ lụy khác, kể cả chuyện ông đã lãnh súng, tham gia ban ám sát và đã nhúng tay vào những vụ giết ngưòi.[12] Lý do là năm đó, năm 1944, Văn Cao bị thất nghiệp, tranh triển lãm bán không được, lại gặp năm “trời rét hơn mọi năm” và khi “những ngày đói của tôi bắt đầu”. Câu chuyện đã được chính nhạc sĩ, hơn ba mươi năm sau, kể lại, nguyên văn như sau:

“Sau triển lãm Duy Nhất 1944 (Salon unique), tôi về ở một căn gác hẹp đầu phố Nguyễn Thượng Hiền. Ba bức tranh sơn dầu của tôi tuy được trưng bày vào chỗ tốt nhất của phòng tranh – nhà Khai Trí Tiến Đức – và được các báo giới thiệu, cũng không bán nổi. Hi vọng về cuộc sống bằng hội họa, tại Hà Nội không thể thực hiện được. Anh bạn nhường cho tôi căn gác ấy là người xuất bản mấy bản nhạc đầu tiên của tôi cũng không thấy nói đến tiện nhuận bút. Tôi chưa bao giờ nhận được tiền nhuận bút về các bản nhạc viết hồi dó dù đã trình diễn nhiều lần ở các tỉnh từ Bắc tới Nam, tôi cũng không nhận được tiền nhuận bút về thơ và truyện ngắn…. Hàng ngày tôi nhờ mấy họa sĩ nuôi cơm và giúp đỡ phương tiện cho làm việc. Cuộc sống lang thang ấy không thể kéo dài nhiếu ngày. Muốn làm việc thì không có chỗ. Hà Nột lúc ấy lại đang đói.

“Năm ấy rét hơn mọi năm. Tôi ngủ mặc nguyên quần áo. Có đêm phải đốt dần bản thảo và ký họa để sưởi. Đêm ấy cũng dài hơn mọi năm. Những ngày đói của tôi bắt đầu.”[13]

Đúng vào lúc đó thì Vũ Quí, người cán bộ Việt Minh thường theo dõi Văn Cao từ nhiều năm trước xuất hiện. Văn Cao kể tiếp:

“Tôi đã gặp lại đồng chí Vũ Quí. Anh là người vẫn theo dõi những hoạt động nghệ thuật của tôi từ mấy năm qua và thường khuyến khích tôi sáng tác những bài hát yêu nước như Đống Đa, Thăng Long hành khúc ca, Tiếng Rừng và một số ca khúc khác. Chúng tôi gặp nhau trước ga Hàng Cỏ. Chúng tôi vào một tiệm ăn. Ở đấy quyết định cuộc đời của tôi. Câu chuyện giữa chúng tôi hết sức đơn giản.

– Văn có thể thoát ly hoạt động được chưa?

– Được.

– Ngày mai Văn bắt đầu nhận công tác và nhận phụ cấp hàng tháng.

 

– Ngày hôm sau anh đưa tôi lại nhà một đồng chí thợ giày đầu ngõ chợ Khâm Thiên để ăn cơm tháng và chờ quyết định và công tác. Ngày đầu tiên chấm dứt cuộc sống lang thang của tôi.”[14]

Sau đó Vũ Quí đến tìm Văn Cao giao công tác. Công tác đó là:

– “Hiện nay, trên chiến khu thiếu bài hát, phải dùng những điệu hướng đạo. Khoá quân chính kháng Nhật sắp mở, anh hãy soạn một bài hát cho quân đội cách mạng của chúng ta.” [15]

Đây là một việc làm hoàn toàn xa lạ đối với một nghệ sĩ như Văn Cao. Ông đã không được làm theo ý riêng và theo hứng khởi của mình mà phải làm theo đơn đặt hàng và để trả nợ với một đề tài không chứa đựng một điều gì quen thuộc. Ông chưa bao giờ lên chiến khu và chưa bao giờ thấy quân Việt Minh ở chiến khu mà phải nói tới chiến khu và quân Việt Minh ở chiến khu. Theo Văn Cao kể lại, ông đã làm bài hát này trong “không biết bao nhiêu ngày tại căn gác hẹp số 45 Nguyễn Thượng Hiền” Hà Nội và trong đêm đầu tiên, sau khi đã đi lang thang dọc theo các đường phố quen thuộc với câu hỏi lúng túng trong đầu: “Phải làm thế nào đây?”, ông chỉ “viết được nét nhạc đầu”. [16] Điều này cũng dễ hiểu vì cũng như Lưu Hữu Phước, khi làm bài này ông không thể không nghĩ tới bài Quốc ca của nước Pháp, bài La Marseillaise. Bằng chứng là trong phần lời ông làm sau này có câu “Cờ in máu chiến thắng mang hồn nước”, một câu tương tự như câu “L’étandard sanglant est levé” trong bài La Marseillaise. Điều tôi muốn nói lên ở đây là Văn Cao không làm bài Tiến Quân Ca trong một hoàn cảnh đầy vui tươi, hứng khởi như hoàn cảnh của Lưu Hữu Phước khi họ Lưu làm bài Sinh Viên Hành Khúc hay của Trúc Hồ khi người nhạc sĩ thuộc thế hệ một chấm rưỡi (1.5) ở Hải Ngoại làm bài Đáp Lời Sông Núi về sau này. Tạo nên nét nhạc cho đơn giản cho mọi ngưòi cùng hát đối với một thiên tài như Văn Cao không phải là chuyện khó. Lời hát đi kèm sao cho đúng ý của người đặt hàng mới chính là vấn đề. Trong hồi ký của ông, Văn Cao không cho biết là Vũ Quí khi giao công tác cho ông có chỉ thị cho ông biết là lời hát phải như thế nào hay không, từ ý tưỏng đến từ ngữ đươọc dùng, nhưng những tiếng như cứu quốc, chiến khu, sao vàng, đời mới, võ trang, Thái Nguyên, Đô Lương, Bắc Sơn…rõ ràng là những ngôn từ của thời đại. Ngưòi ta cũng không biết là Nguyễn Đình Thi, một cán bộ văn hóa cao cấp khác, tác giả của bài Diệt Phát Xít có ảnh hưởng gì tới Văn Cao hay không, nhưng hai người có gặp nhau theo lời kể của Văn Cao: “Tôi nhớ lại nụ cười hồn nhiên của đồng chí Nguyễn Đình Thi khi xướng âm lần đầu tiên nhạc điệu bài hát đó.” Xướng âm nhạc điệu ở đây phải được hiểu là nhạc điệu thôi, không phải là lời. Còn Nguyễn Đình Thi thì sau này khi được Ngô Vĩnh Bình phỏng vấn vào tháng 3 năm 1985 “đã cười bảo: bài Diệt phát-xít thực ra chỉ diễn tả những khẩu hiệu, đường lối của Việt Minh lúc ấy.”[17] Đường lối này không thể khác hơn là đường lối đã được Trường Chinh vạch ra trong Bản Đề Cương Về Cách Mạng Văn Hóa Việt Nam năm 1943 của Đảng Cộng Sản Việt Nam mà Vũ Quí, Nguyễn Đình Thi hay cao hơn nữa là Lê Quang Đạo chỉ là những cấp thừa hành.[18] Nghi vấn này nếu được giải tỏa thì câu “Thề phanh thây uống máu quân thù” có thể hiểu là không phải của Văn Cao mà là của những người khác hay do ý của người khác. Một nghi vấn về một đồng tác giả của Tiến Quân Ca do tờ TPCN (người viết bài này nhất thời chưa rõ tên thực sự của tờ báo này là gì, không biết có phải là Tiền Phong Chủ Nhật hay không?) một dạo đã được nêu lên, căn cứ vào bản in đầu tiên do chính Văn Cao trực tiếp lo phần ấn loát. Nguyễn Thụy Kha đã hỏi lại chính Văn Cao qua một cuộc phỏng vấn vào năm 1993, một buổi sáng sau ngày mừng sinh nhật của Văn Cao, có thể phần nào giúp ta hiểu rõ hơn vấn đề này. Câu chuyện đã được Nguyễn Thụy Kha ghi và người viết xin chép lại nguyên văn để người đọc thấy thêm được nhiều chi tiết quan trọng cũng như những hệ lụy khác:

 “Nguyễn Thụy Kha: Thưa bác, có lẽ vì đêm đó quá vui, bác mệt.

“Văn Cao: Đúng, vui lắm. hình như tôi đã chọc anh nhiều. Song cuộc vui nao chẳng tàn. Cái buồn lưu cữu lại ập đến.

“NTK: Vâng! Cháu rất biết. Chúng ta đều là con người chứ có phải lằ gỗ đá đâu. Cũng vì vậy, hôm nay, cháu xin bác nói thêm với cháu và tất cả mọi người về cái buồn của bác trong thời gian này.

“V.C: Có gì đâu. Mọi việc vì tôi là tác giả Quốc Ca, anh ạ! Tự nhiên bây giờ sau 46 năm lại có tờ TPCN đặt vấn đề nghi vấn. Trong việc này, có những cái nhìn bị nhiễu từ kênh này sang kênh khác.

“N.T.K: Bác nói chắc đấy chứ? Kẻo lại mang tiếng cho dụng ý tốt của tờ báo.

“V.C: Tôi đã nói là chắc. Mà đã nói rồi nhưng rất tiếc là anh Xuân Ba, người đến phỏng vấn tôi kỳ trước không viết ra hết mặt báo. Trong việc này có ba sự thật:

“- Sự thật thứ nhất là: Tôi là ngưòi viết Tiến quân ca, điều ấy chỉ có tôi mới biết vì khi tôi sáng tác bài này trong bí mật, không ai được biết. Ai nói biết là bịa.

“- Sự thật thứ hai: Tôi đã có ý để anh Đỗ Hữu Ích đứng tên cùng là tác giả phần lời với mật danh Anh Dũng. Lúc ấy tôi lấy mật danh là Anh Thọ. Bài Tiến quân ca đầu tiên do tôi trực tiếp ấn loát ghi tác giả: Nhạc Anh Thọ, lời Anh Dũng. Tôi có ý để anh Ích trong bài Tiến quân ca có hai lý do:

“1. Lúc ấy tôi là bạn anh Ích và đang lấy tạm nhà anh Ích làm cơ sở hoạt động.

“2. Để anh Ích đứng tên chung có lợi ở chỗ nếu anh Ích có muốn phản bội thì cũng không dám vì đã trót đứng tên chung cùng với tôi. Đây là một phép trong hoại động bí mật. Buộc phải đề phòng mọi khả năng. Anh Ích quen rất nhiều hiến binh. Bài Tiến quân ca khi đó mới chỉ là bài ca của quân cách mạng. Người sáng tác bài ca là kề với cái chết bất cứ lúc nào. Tôi để anh Ích đứng chung bằng mật danh là để bảo vệ bài ca này.

“Nhưng đó là thời kỳ bí mật. Sau cách mạng khi anh Ích lập nhà xuất bàn Đỗ Văn thì lúc này anh đã tự chuyển ý sang: Nhạc Văn Cao, lời Đỗ Hữu Ích, kể cả khi anh vận động nhà in in ở Hải Phòng. Nó đã lột được bản chất xấu của anh Ích.

“Sự thật thứ ba là: Khi bài Tiến quân ca được công nhận là Quốc ca Việt Nam, nó được sự góp ý về nhạc của anh Đinh Ngọc Liên và Nguyễn Hữu Hiếu. Còn lời thì anh Tố Hữu đã sửa nhiều câu (xin để ý mấy chữ này). Nhưng khi Bác Hồ yêu cầu gặp tác giả Quốc ca thì chỉ một mình tôi (do anh Tố Hữu đưa đến gặp Bác. Vì thế, năm 1946 nhà nước in bài Tiến quân ca và Quốc ca trong hiến phápcông bố với toàn dân và nước ngoài là Văn Cao. Vậy báo Tiền Phong CN với lòng công tâm giúp đỡ anh Ích thì phải cùng anh Ích đấu tranh với nhà nước để đòi bằng được cho anh Ích, Tôi làm sao làm được việc đó…. Nếu Quốc hội đã chứng nhận tôi là tác giả Quốc ca thì tôi phải nghe và chấp hành. Khi ấy, kẻ nào nhận thêm vào tức là mạo danh tác giả rồi. Có ngồi với nhau cũng chả giải quyết được.”[19]

Qua những gì Văn Cao giải thích kể trên, ta có thể nói không phải dè dặt rằng bài Tiến Quân Ca là do Văn Cao làm với sự góp ý và luôn cả sửa chữa của nhiều người trong đó có Tố Hữu. Riêng Tố Hữu “đã sửa nhiều câu”. Cũng vậy tất cả đã được làm trong bí mật mà nếu không có chuyện Đỗ Hữu Ích đòi chia sẻ quyền tác giả thì Văn Cao đã không nói ra. Nói cách khác những gì Văn Cao nói ra chỉ là một phần của sự thật nhưng người ta vẫn có thể kết luận rằng Văn Cao không phải là tác giả duy nhất của bài Tiến Quân Ca nhất là về phần lời hát. Phần này đã được sự góp ý của nhiều người trong đó có Tố Hữu và Nguyễn Đình Thi, hai cán bộ cao cấp đương thời và về sau này. Ngay cả cái tên của bài hát, Nguyễn Đình Thi cũng có góp phần, đồng thời hai chữ Việt Minh trong câu “Đoàn quân Việt Minh đi chung lòng cứu quốc” là hai chữ được dùng lúc ban đầu, sau này mới được đổi thành Việt Nam. Việt Minh lúc ấy chỉ là một đảng, hay một mặt trận, còn nhiều đảng và mặt trận khác. Chính vì vậy bài hát khi được phổ biến mới bị những ngưòi chống Việt Minh nhái đi thành: “Đoàn quân Việt Minh đi xe nhà phất phới, dắt họ hàng làng nước ra làm quan”.[20]

B. Nguyên văn lời hát

 I. Sinh Viên Hành Khúc hay Tiếng Gọi Sinh Viên 

Bài này có ba lời một điệu , mỗi lời gồm mười câu và bốn câu điệp khúc chung.

Lời I kêu gọi sinh viên Bắc – Nam, cả nước, cùng nhau kết đoàn, “đứng lên đáp lời sông núi”, “mở đường khai lối” cho đồng bào, dù cho thời thế khó khăn, chông gai đầy dẫy. Trên con đường mới, mở rộng tầm mắt ra bốn phương với tâm hồn trong sáng và can trường của tuổi thiếu niên. Nguyên văn như sau:

Này sinh viên ơi! Đứng lên dáp lời sông núi!

Đồng lòng cùng đi, đi, đi mở đường khai lối. 

Vì non sông nước xưa truyền muôn năm chớ quên,

Nào anh em Bắc Nam! Cùng nhau ta kết đoàn!

Hồn thanh xuân như gương trong sáng,

Đừng tiếc máu nóng, tài xin ráng!

Thời khó, thế khó, khó làm yếu ta,

Dầu muôn chông gai vững lòng chi sá.

Đường mới kíp phóng mắt nhìn xa bốn phương,

Tung cánh hồn thiếu niên ai đó can trường. 

và phần điêp khúc:

 Sinh viên ơi! Sinh viên ơi!Ta quyết đi đến cùng!

 Sinh viên ơí! Sinh viên ơi! Ta nguyền đem hết lòng!

 Tiến lên! Đồng tiến! Vẻ vang đời sống!

 Chớ quên rằng ta là giống Lạc Hồng!

 

 Lời II nhắc lại lịch sử “hùng cường” trong cõi “Trời Nam” của dân tộc với những chiến thắng bình Chiêm, phá Tống, đánh đuổi quân Nguyên, kháng cự oai hùng của Hai Bà Trưng ở Hồ Tây, Lam Sơn Khởi Nghĩa của Lê Lợi, dẹp tan quân Thanh của Quang Trung và kêu gọi sinh viên đừng quên khí phách từ xưa được truyền lại của nòi giống, mong mỏi có ngày đất nước vẻ vang. Nguyên văn như sau:

 Này sinh viên ơi! Dấu xưa vết còn chưa xóa!

 Hùng cường Trời Nam ghi trên bảng vàng bia đá!

 Lùa quân Chiêm nát tan, thành công Nam Tiến luôn (mau tiến lên),

 Bình bao phen Tống Nguyên, từng ca câu khải hoàn.

 Hồ Tây tranh phong oai son phần,

 Lừng tiếng Sát Thát, Trần Quốc Tuấn. 

 Mài kiếm cứu quốc (nước) nhớ Người Núi Lam,

 Trừ Thanh Quang Trung giết hàng bao đám.

 Nòi giống có khí phách từ xưa chớ quên,

 Mong đến ngày vẻ vang, ta thắp hương nguyền

 (Trở lại điệp khúc)

 

Lời III kêu gọi sinh viên, vì đường còn xa, phải noi gương người xưa, “cùng nhau gắng”, “đem lòng son cho giống dòng”, trong vị thế và khả năng của mình “vun cây văn hoá”, “vững cầm tay lái”, “bền chí quyết gắng sức làm cho khắp nơi vang tiếng người nước Nam cho đến muôn đời!”. Nguyên văn như sau:

 Này sinh viên ơi! Muốn đi đến ngày tươi sáng,

 Hành trình còn xa, anh em phải cùng nhau gắng!

 Ngày xưa ai biết đem tài cao cho núi sông,

 Ngày nay ta cũng đem lòng son cho giống dòng.

 Là sinh viên vun cây văn hóa,

 Từ trước sẵn có nhiều hoa lá.

 Đời mới kiến thiết đáp lòng những ai

 Hằng mong ta ra vững cầm tay lái.

 Bền chí quyết cố gắng làm cho khắp nơi

 Vang tiếng người nước Nam cho đến muôn đời![21]

 (Trở lại điệp khúc)

 Khi bài được nhận làm đoàn ca của Thanh Niên Niền Phong và sau đó là Quốc Ca của Quốc Gia Việt Nam của Quốc trưởng Bảo Đại theo dề nghị của Bác Sĩ Nguyễn Tôn Hoàn và theo Bác Sĩ Hoàn thì nhan đề của bài hát được đổi thành Thanh Niên Hành Khúc và nội dung cũng được sửa lại như sau:

 Này thanh niên ơi! Quốc Gia đến ngày giải phóng

 Đồng lòng cùng đi hy sinh tiếc gì thân sống.

Vì tương lai quốc dân, cùng xông pha khói tên.

Làm sao cho núi sông từ nay luôn vững bền.

Dù cho phơi thây trên gươm giáo.

Thù nước lấy máu đào đem báo.

Nòi giống lúc biến phải cần giải nguy.

Người thanh niên ta cố rèn tâm trí.

Hùng tráng quyết chiến đấu làm cho khắp nơi

Vang tiếng người nước Nam cho đến muôn đời.

 

 Điệp khúc:

 Thanh niên ơi! Thanh niên ơi! Mau hiến thân dưới cờ!

Thanh niên ơi! Thanh niên ơi! Mau làm cho cõi bờ!

Thoát cơn tàn phá, vẻ vang nòi giống,

Xứng danh ngàn năm dòng giống Lạc Hồng!

 Bác sĩ Nguyễn Tôn Hoàn giải thích sự lựa chọn này như sau:

 “Khoảng năm 1947, trước khi trỏ về nước lập chính phủ mới, cựu hoàng Bảo Đại có mời tôi và một số đại diện tôn giáo, các chính khách như các ông Ngô Đình Diệm, Đinh Xuân Quảng, Phan Huy Quát, Trần Văn Tuyên, Trần Quang Vinh, Trần Thành Đạt, BS Lê Văn Hoạch, Trần Văn Hữu, Nguyễn Văn Tâm, v..v…đến họp tại Hồng Kông. Trong buổi hội nghị này có bàn về sự lựa chọn quốc kỳ và bản quốc ca cho Việt Nam. Hình vẽ là cờ vàng ba sọc đỏ tượng trưng ba miền Trung, Nam, Bắc của họa sĩ nổi danh tại miền Nam là họa sĩ Lê Văn Đệ đã được chọn làm quốc kỳ Việt nam. Tôi đề nghị chọn bản ‘Tiếng Gọi Sinh Viên’ làm quốc ca, vì nó là linh hồn cuộc chống Pháp tại miền Nam Việt nam của Đoàn Thanh Niên Tiền Phong. Hội nghị đã chấp thuận và bản nhạc được đổi tên là Thanh Niên Hành Khúc với lời nhạc…”[22] (được giữ nguyên như trên)

 Về thời điểm Bác Sĩ Nguyễn Tôn Hoàn chỉ nói là vào khoảng năm 1947 và cũng không giải thích sự thay đổi lời hát nhưng điều này không khó hiểu vì thời cuộc Việt nam vào lúc này đã hoàn toàn thay đổi. Lực lượng của người Việt Quốc Gia đã được tập hợp lại dưới sự lãnh đạo của Cựu Hoàng Bảo Đại và chính quyền Quốc Gia của một nước Việt Nam độc lập và thống nhất đang trên đà thành hình, việc lựa chọn Quốc Kỳ và Quốc Ca, những biểu tượng cho một chính thể mới, phải là một trong những việc làm đầu tiên cần được thực hiện. Cờ vàng với ba sọc đỏ là tượng trưng cho sự thống nhất ba kỳ, nguyện vọng của mọi người lúc đó, Thanh Niên Hành Khúc là linh hồn cuộc kháng chiến chống Pháp tại miền Nam Việt Nam của Đoàn Thanh Niên Tiền Phong là những lý do được nêu lên. Ta cũng cần phải thêm vào đó một sự kiện không thể chối cãi được. Đó là những sinh viên xuất thân từ xứ Nam Kỳ là những ngưòi đã đóng vai trò quan trọng nhất trong việc sáng tác và phổ biến ca khúc này. Tiếp theo là sự thành hình của chính quyền quốc gia và sự thực thi nền thống nhất lãnh thổ và thống nhất dân tộc. Cả hai cùng bắt đầu từ miền Nam, từ xứ Nam Kỳ. Nói cách khác nền thống nhất của đất nước Việt Nam vào cuối thập niên bốn mươi đã không đến bằng bạo lực mà bằng hòa bình và phát khởi từ miền Nam. Miền nam đã ý thức được nguồn gốc và vai trò lịch sử của mình, đã tìm cách trở về với dân tộc. Đó là sự trở về với lãnh thổ quốc gia của xứ Nam Kỳ do chính người miền Nam chủ xướng. Trong hoàn cảnh này, lời của bài hát đương nhiên là phải được sửa đổi.

 Giai đoạn tiếp theo là thời kỳ chế độ Cộng Hoà ở miền Nam được thành lập, người Pháp đã ra đi, nền độc lập đã hoàn toàn được thực hiện, một giai đoạn mới đã bắt đầu, lời của Quốc Ca một lần nữa cần được điều chỉnh thêm một lần nữa cho thích hợp với một nước Việt Nam độc lập đang trên đường củng cố và xây dựng.

Nguyên văn của lời mới như sau:

 Nàycông dân ơi! Đứng lên đáp lời sông núi!

 Đồng lòng cùng đi hy sinh tiếc gì thân sống.

Vì tương lai quốc dân cùng xông pha khói tên,

Làm sao cho núi sông từ nay luôn vững bền.

Dù cho thây phơi trên gươm giáo,

Thù nước lấy máu đào đem báo.

Nòi giống lúc biến phải cần giải nguy,

Người công dân luôn vững bền tâm chí.

Hùng tráng quyết chiến đấu làm cho khắp nơi

Vang tiếng người nước Nam cho đến muôn đời

Điệp khúc:

 

 Công dân ơi! Công dân ơi! Mau hiến thân dưới cờ!

Công dân ơi! Công dân ơi! Mau làm cho cõi bờ!

Thoát cơn tàn phá, vẻ vang nòi giống,

Xứng danh ngàn năm dòng giống Lạc Hồng.[23] 

 

II. Tiến Quân Ca

Tiến Quân Ca là một hành khúc gồm một điệu nhạc và hai phần lời, được làm cho quân Việt Minh lúc đó mới được thành lập trên chiến khu, theo lời yêu cầu của Vũ Quí. Nguyên văn phần lời ban đầu như sau:

Lời I: 

 Đoàn quân Việt Minh đi chung lòng cứu quốc,

 Bước chân dồn vang trên đưòng gập ghềnh xa.

 Cờ in máu chiến thắng mang hồn nước,

 Súng ngoài xa chen khúc quân hành ca.

 Đường vinh quang xây xác quân thù.

 Thắng gian lao đoàn Việt lập chiến khu.

 Thề phanh thây uống máu quân thù!

 Tiến mau ra sa trường. Tiến lên! Cùng thét lên!

 Chí trai là đây ta ước nguyền.

 Lời II: 

 Đoàn quân Việt Minh đi, sao vàng phất phới,

 Dắt giống nòi quê hương qua nơi lầm than.

 Cùng chung sức phấn đấu xây đời mới.

 Đứng đều lên gông xích ta đập tan.

 Từ bao lâu ta nuốt căm hờn.

 Quyết hy sinh đời ta tươi thắm hơn.

 Dù thây phơi xương nát không sờn.

 Tiến mau ra sa trường. Tiến lên! Cùng thét lên!

 Chí trai là đây, nơi ước nguyền

 Bài này, sau khi Việt Minh cướp được chính quyền ngày 19 tháng 8 năm 1945 và Hồ Chí Minh tuyên bố độc lập ngày 2 tháng 9 sau đó đã trở thành Quốc ca của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà rồi Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam hiện tại. Trong hoàn cảnh mới, lời ca đã được thay đổi. “Đoàn quân Việt Minh” đã được đổi thành “Đoàn quân Việt Nam” và đặc biệt là câu “Thề phanh thây uống máu quân thù”, nghe có vẻ sắt máu và đôi khi man rợ theo nhiều ngưòi nhận định cho một dân tộc tư coi là văn minh của thời đại mới không có lợi cho các vận động tuyên truyền, đã được đổi thành “Vì nhân dân chiến đấu không ngừng”…[24] Tuy nhiên, trước khi có những sự thay đổi này, đối chiếu với những gì chính tác giả Văn Cao tiết lộ với nhà văn Nguyễn Thụy Kha năm 1991 như đã trình bầy trên đây và như một “sự thực thứ ba” là “Khi bài Tiến quân ca được công nhận là Quốc ca Việt Nam, nó đã được sự góp ý về nhạc của anh Đinh Ngọc Liên và Nguyễn Hữu Hiếu. Còn lời thì anh Tố Hữu đã sửa nhiều câu…” lời của Tiến Quân Ca và luôn cả nhạc đã bị sửa ít ra là một lần chưa kể tới sự ít ra là góp ý của Nguyễn Đình Thi và chắc chắn những chỉ dẫn của Vũ Quí. Tiếc rằng ông đã không nói rõ hơn là những góp ý và những câu được sửa ấy là những câu nào, đồng thời nguyên thủy do Văn Cao làm là như thế nào. Người ta cũng không được rõ trong thâm tâm của ông lúc đó và sau này, Văn Cao đã có những cảm nghĩ gì trước những sự “góp ý” và “sửa” đó. Đằng sau thái độ chấp nhận, vui vẻ, thụ động, hãnh diện hay bất đắc dĩ đó, ông đã nghĩ gì? Nó có ảnh hưởng gì tới những việc làm sau này của ông không? Nó có phải là một trong nỗi u uất ông mang theo khi từ bỏ cõi đời này không? Lịch sử không bao giờ được biết. Có điều sau khi ông mất một vài tác giả đã nói tới sự đau buồn của ông sau cái chết đầy nghi vấn của Vũ Quí vào giữa tháng 9 năm 1945. Kể lại chuyện này, Phí Văn Bái đã ghi: “Mỗi khi nhắc lại chuyện cũ, cũng như hôm nay anh cầm tấm ảnh đồng chí Vũ Quý, nước mắt anh lại ướt đầm.”[25] Còn Nguyễn Thụy Kha, người có lẽ được nghe Văn cao tâm sự nhiều hơn hết vì tác giả này đã viết cả một chùm 18 bài về nhạc sĩ thiên tài nhưng bất hạnh này, trong “Văn Cao, Người Viết Quốc Ca”, thì nhận xét về Văn Cao trong thời kỳ kháng chiến như sau:

 “ Chín năm kháng chiến dằng dặc đi qua gia đình anh và cho anh hai đứa con trai cùng sự nghiệp âm nhạc. Nhưng cũng chín năm ấy, lòng anh biết bao trăn trở. Cái buồn đầu tiên mà anh vấp phải là cái chết khó hiểu của Vũ Quý – người mà bằng mọi linh cảm, anh không tin có thể là người xấu. Mất Vũ Quý, anh cảm thấy chống chếnh tinh thần biết bao. Rồi vết thương cũng thành sẹo. Nhưng lại bao vết thương khác mưng tấy vì những xót xa trước nhiều điều mà khi hăng hái nhập vào cách mạng, anh không cách gì nghĩ tới. Đã xen vào giữa những người từ tế là nững kẻ cơ hội. Đau đớn nhất là chúng – những kẻ không của chúng ta lại vẫn đang đàng hoàng đứng trong hàng ngũ chúng ta. Đứng vững và có quyền lực nữa. Thế mới khó khăn!”[26] 

 Chưa hết. Sau này “Cho đến những ngày ở Hà Nội, mấy năm 1956-1957, trong văn nghệ có nhiều sóng gió, anh Văn Cao có những vấp váp buồn bực.”[27] Những sóng gió này ai cũng biết là vụ Nhân Văn Giai Phẫm. Văn Cao đã không còn được phép sáng tác và nhạc của ông cũng không còn được trình diễn nhưng người ta cũng cần phải hiểu là trong hoàn cảnh đó ông cũng chẳng còn hứng khởi để làm gì. Hậu quả là “Hai mươi năm cuối cuộc đời, Văn Cao chỉ viết vài ba bài hát, đấy là bài Mùa xuân đầu tiên (1975) và bài Tình ca trung du (1984). Bài Mùa xuân đầu tiên ông viết sau ngày nước nhà thống nhất, khi cảm xúc trào lên ào ạt ở những người khác, thì cảm xúc của ông lắng lại, bình thản sau quá nhiều xáo trộn cuộc đời. Ông nhìn thấy mùa xuân dặt dìu theo én về, ông lắng nghe tiếng “gà đang gáy trưa bên sông” và ông khẳng định rằng cái “mùa bình thường” đã về. “Từ đây người biết quê người – Từ đấy người biết thương người – Từ đây người biết yêu người”. Âm nhạc của ông vẫn đẹp, ấm và sang trọng, thoát hẳn ra ngoài những bài hát reo vui lúc bấy giờ. Đó là bí mật tài hoa riêng của ông. Bài hát liền sau đó được dịch và in ở Liên Xô. Chỉ tiếc rằng hầu như nó chẳng được phổ biến trong đất nước của mình.”[28] Một hiện tượng hoàn toàn toàn trái ngược với hiện tượng Phạm Duy ở miền Nam.

 Đáp Lời Sông Núi của Trúc Hồ thoạt nghe có vẻ đơn giản hơn hai bài trước, chỉ gồm có một điệu nhạc và một lời:

 Đáp lời sông núi, anh em ta đáp lời sông núi.

 Tổ quốc lâm nguy! Xương máu này ta nguyện hiến dâng!

 Đáp lời sông núi, anh em ta đáp lời sông núi.

 Quyết bảo vệ giang san! Ta thề chết cho quê hương!

 Đây muôn triệu con tim! Đây muôn triệu khối óc!

 Cũng dòng máu Việt Nam.

 Đây Hưng Đạo Vương! (Hai Bà Trưng!) Đây Lý Lê Trần!

 Bốn ngàn năm chưa một lần khuất phục ngoại xâm!

 Đáp lời sông núi, anh em ta đáp lời sông núi.

 Tổ quốc lâm nguy, xương máu này ta nguyện hiến dâng.

 Đáp lời sông núi, anh em ta đáp lời sông núi.

 Quyết bảo vệ giang san! ta thề chết cho quê hương!

 Quyết bảo vệ giang san! từng tấc đất, từng cây cỏ

 Từng phố phường, từng con đường, từng bờ biển quê hương!

 Việt Nam! Việt Nam! Việt Nam!

 

Nhưng khi được hỏi, Trúc Hồ đã giải thích thêm là sự đơn giản, nhất là lời, chỉ là để cho bài hát dễ hát còn thực sự về nhạc, nội dung không hoàn toàn như thế mà bao gồm cả thảy bốn phần: phiên khúc, điệp khúc, đoạn nhạc tiếp nối (musical bridge) và đoạn nhạc coda với những chi tiết như sau:

 Phiên khúc:

Đáp lời sông núi, anh em ta đáp lời sông núi.

Tổ quốc lâm nguy! Xương máu này ta nguyện hiến dâng!

Đáp lời sông núi, anh em ta đáp lời sông núi.

Quyết bảo vệ giang san! Ta thề chết cho quê hương!

 Điệp khúc:

Đây muôn triệu con tim! Đây muôn triệu khối óc!

Cũng dòng máu Việt Nam.

Đây Hưng Đạo Vương! (Hai Bà Trưng!) Đây Lý Lê Trần!

Bốn ngàn năm chưa một lần khuất phục ngoại xâm!

 Phiên khúc:

 Đáp lời sông núi, anh em ta đáp lời sông núi.

Tổ quốc lâm nguy, xương máu này ta nguyện hiến dâng.

Đáp lời sông núi, anh em ta đáp lời sông núi.

Quyết bảo vệ giang san! ta thề chết cho quê hương!

 Đoạn nhạc tiếp nối (Musical Bridge):

 Quyết bảo vệ giang san! từng tấc đất, từng cây cỏ

Từng phố phường, từng con đường, từng bờ biển quê hương!

 Đoạn nhạc coda:

Việt Nam! Việt Nam! Việt Nam! 

daploisongnui

 

C. Đối tượng và khả năng hấp dẫn

 Vì được sáng tác trong những hoàn cảnh khác nhau, đối tượng được hướng tới của ba bài hát khác nhau, từ đó lời hát và điệu nhạc cũng khác nhau, tính chất và khả năng lôi cuốn người hát và người nghe cũng khác nhau.

 Đối tượng của Tiếng Gọi Sinh Viên là sinh viên, là tập thể mà tác giả là một thành phần, kể cả nếu theo lời kể của nhiều ngưòi cho rằng bài này khởi thủy là được làm cho học sinh trường Trung Học Petrus Trương Vĩnh Ký khi tác giả còn theo học trường này, nó vẫn là tập thể của chính tác giả. Nói cách khác, chính thức hơn, bài hát này được Lưu Hữu Phước làm cho tập thể của chính ông, tâp thể sinh viên Đại Học Đông Dương ở Hà Nội và được mang tên là Sinh Viên Hành Khúc với tên tiếng Pháp là Marches des Étudiants. Trong hoàn cảnh đó, ước mơ và hy vọng của Lưu Hữu Phước cũng là ước mơ và hy vọng chung của tất cả mọi người trong tập thể chung của ông. Chúng bắt nguồn từ hoàn cảnh sinh hoạt đương thời, từ học hành cho đến chính trị, xã hội, văn hoá… trong đó quan trọng hơn cả là lịch sử oai hùng của nhiều ngàn năm của dân tộc mà ông và những đồng bạn cùng quê hương Nam Kỳ, một miền đất của quốc gia Việt Nam vốn từ lâu bị nhượng làm thuộc địa của người Pháp, của ông, bất ngờ tìm lại được qua sách vở và qua những chuyến du ngoạn thăm các di tích lịch sử ở xung quanh thủ đô Hà Nội. Sức lôi cuốn của Tiếng Gọi Sinh Viên ngay từ những ngày đầu và ở toàn quốc, từ Bắc chí Nam, bắt nguồn từ những yếu tố này. Lịch sử của dân tộc trực tiếp hay gián tiếp bàng bạc trong khắp cả ba phần lời của bài hát, đặc biệt là phần thứ hai. Chúng khích động người hát và đem họ lại gần nhau vì tác giả là chính họ, và họ là chính tác giả, cả hai là một, không có sự khác biệt:

 

 Này sinh viên ơi! Dấu xưa vết còn chưa xóa!

 Hùng cường Trời Nam ghi trên bảng vàng bia đá!

 Lùa quân Chiêm nát tan, thành công Nam Tiến luôn

 (mau tiến lên),

 Bình bao phen Tống Nguyên, từng ca câu khải hoàn.

 Hồ Tây tranh phong oai son phần,

 Lừng tiếng Sát Thát, Trần Quốc Tuấn. 

 Mài kiếm cứu quốc (nước) nhớ Người Núi Lam,

 Trừ Thanh Quang Trung giết hàng bao đám.

 Nòi giống có khí phách từ xưa chớ quên,

 Mong đến ngày vẻ vang, ta thắp hương nguyền.

 Trưòng hợp của Tiến Quân Ca, trái lại, hoàn toán khác hẳn. Nó không được làm cho chính tác giả, dù cho trong hồi ký Văn Cao có nói tới “bóng mấy người đói khổ trần truồng loang trên mặt hồ lạnh” hay “ngọn lửa tím sẫm bập bùng trong những hốc mắt” hay việc ông “đang chờ nhận một khẩu súng lục và được tham gia vào đội vũ trang”.[29] Những sự kiện này chỉ đến với Văn Cao sau khi ông nhận lời của Vũ Quí “làm môt bài hát cho quân dội cách mạng của chúng ta” và khi ông lang thang đi tìm “một cái gì để nói, một âm thanh đầu tiên”. Cái gì để nói , âm thanh đầu tiên này lúc mới gặp Vũ Quí trở lại, được Vũ Quí giao cho công tác, được nhận trợ cấp, có chỗ ăn cơm tháng, chấm dứt cuộc đời lang thang, thất nghiệp và đói khát của ông, Văn Cao không hề có. Quân đội cách mạng cho tới thời điểm đó chỉ mới là của Vũ Qui, chưa là của Văn Cao. Quân đội cách mạng hay “Đoàn quân Việt Minh” sau này trong Tiến Quân Ca lúc đó còn ở tít trên chiến khu, Văn Cao chưa từng thấy, chưa nói tới chuyện ông có phải là một đội viên của nó hay không. Chuyện ông nhận đươọc khẩu súng và được tham gia vào đội vũ trang mới chỉ là chuyện ông đang chờ. Câu hỏi được đặt ra là nếu vậy làm sao bài hát này lại được phổ biến nhanh như vậy? Câu trả lời rất đơn giản : đó là nhờ guồng máy tuyên truyền của Việt Minh thời đó rồi sau này là của chính quyền khi nó trở thành quốc ca của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà do Hồ Chí Minh làm Chủ Tịch. Nó cách khác, tác giả và đối tượng của Tiến Quân Ca là hai chủ thể hoàn toàn khác biệt, không phải là một. Ngưòi hát cũng vậy. 

Không có cái may mắn của cả Lưu Hữu Phước và Văn Cao, Trúc Hồ khi làm Đáp Lời Sông Núi không có một đối tượng rõ ràng như hai tác giả tiền bối của ông. Khi tác giả mới lớn lên, từ các trường thuộc bậc tiểu học đến trường Petrus Ký mà ông đã theo học, như đã nói ở trên, đều đã không còn nữa, kể cả cái tên Petrus Trương Vĩnh Ký. Tên này sau năm 1975 đã bị thay thế bằng tên Lê Hồng Phong lạ hoắc. Các thày cô cũ nhiều người cũng đã ra đi hay không còn được dạy nữa. Họ đã bị thay thế bằng những thày cô từ miền Bắc vô, những người từ lời nói, cách đối xử đến kiến thức và cách dạy khác hẳn các thày cô cũ. Người ta không rõ là Trúc Hồ đã bị ngỡ ngàng, trơ trọi và cô đơn như thế nào, nhưng chắc chắn những mất mát đầu đời này đã ám ảnh ông suốt đời, từ đó đã ảnh hưởng tới âm nhạc của ông. Không còn trường và bạn học nhưng Trúc Hồ vẫn còn anh em, bạn bè và nhất là vẫn còn những người thày dạy nhạc cũ. Mạnh hơn nữa là những gì đã xảy ra ở Biển Đông trong thập niên đầu của thế kỷ 21, đặc biệt là sự săn đuổi, bắt giữ đòi tiền chuộc, đánh đập, làm nhục các ngư dân Việt Nam của các tầu hải tuần của Trung Cộng mà báo chí, truyền hình, truyền thanh và tin tức trên mạng đã đến với người Việt gần như hàng ngày. Tất cả đã gợi lại trong trí nhớ của mọi ngườì về cuộc xâm chiến Hoàng Sa năm 1974 và sau đó là một số đảo ở Trường Sa vào năm 1988 của Trung Cộng. Theo Trúc Hồ tâm tình với người viết, sự hy sinh của Hải Quân Thiếu Tá Ngụy Văn Thà và 74 chiến hữu của ông cũng như sau này của 64 chiến sĩ Hải Quân khác, đã trực tiếp thúc đẩy ông làm Đáp Lời Sông Núi. Ông đã không mở đầu bài hát của mình bằng lời kêu gọi mà bằng lời rủ anh em, bạn bè thân thiết của mình và rộng hơn, những người cùng trang lứa với mình ở bất cứ nơi nào trên thế giới hay ở Việt Nam “đứng lên đáp lời sông núi!” như là một tập thể duy nhất: “Đáp lời sông núi! Anh em ta đáp lời sông núi!” Giữa người rủ và người được rủ ở đây là một, không có người kêu gọi và người được kêu gọi. Nói cách khác người làm bài hát, người hát bài hát và người nghe bài hát đều là một. Mọi ngưòi hòa nhập với nhau không có sự phân biệt giữa người nhắm và người được nhắm tới. “Anh em ta…!” so với “Này sinh viên ơi!” tuy có giống nhau nhưng đã vượt xa hơn một bực. Không dừng ở đó, Trúc Hồ vươn tới “muôn triệu con tim, muôn triệu khối óc cùng dòng máu Việt Nam” hay trong một bài khác “ những trái tim gọi Việt Nam, những trái tim cùng dòng máu”:

 

Tựa vào lòng nhau, ơi những trái tim gọi ViệtNam!

 Tựa vào lòng nhau, ơi những trái tim cùng dòng máu!”

 ( Một Ngày Việt Nam)

 Khả năng hấp dẫn hay hấp lực hay sự quyến rũ của Đáp Lời Sông Núi và đương nhiên Tiếng gọi Sinh Viên nằm ở điểm này, điểm mà Tiến Quân Ca không có. Đối tượng của bài hát của Văn Cao không phải là Văn Cao hay những người chung quanh Văn Cao mà là một tập thể những người ông chưa bao giờ gặp hay nhìn thấy. Lý do hoàn toàn đơn giản: ông đã làm theo “đơn đặt hàng”. Người ta có thể viện dẫn những người “đói khổ trần truồng loang trên mặt hồ lạnh” mà ông đã bắt gặp khi đi lang thang tìm hứng sau khi nhận lời với Vũ Quí, hay chuyện ông sắp nhận được khẩu súng “và được tham gia vào đội vũ trang”, coi như là một danh dự và là niềm hãnh diện của ông, để biện minh phần nào, nhưng tất cả vẫn chỉ là gượng ép. Đối tượng chính của bài hát của ông vẫn là những Đội Tuyên Truyền Giải Phóng Quân mới đưọc thành lập ở một nơi xa tắp nào đó, trên tận chiến khu. “Đoàn quân Việt Minh đi…” chỉ là do trí tượng của ông cũng như “bước chân dồn vang trên đường gập ghềnh xa” của họ. Không thấy họ, Văn Cao không thể nào kêu gọi họ. Họ đã có trước rồi nên ông chỉ có thể ngưỡng mộ họ và ca ngợi họ bằng những lời lẽ mà những cán bộ tiếp xúc với ông và giao công tác cho ông đã hướng dẫn cho ông như “cứu quốc”, “cờ in máu”, “chiến khu”, “phanh thây uống máu quân thù”, “sao vàng phất phới”… thay vì bằng những ngôn từ đẹp, đầy lãng mạn tính và nặng về hoài cổ của Buồn Tàn Thu, Thiên Thai, Suối Mơ, Trương Chi, hay ít ra  Thăng Long Hành Khúc… của ông trước đó.

 Văn Cao cũng không dành cho lịch sử một chỗ đứng trong bài hát của ông, bài hát cho quân đội cách mạng. Lý do phải chăng là vì đối tượng chính phải là cách mạng, phải mang chiến đấu tính, phải có quân thù, giết quân thù và chiến thắng quân thù… và nhất là phải bỏ lại sau lưng những cái cũ. Cũng là chiến đấu cho người Việt Nam nhưng ông không hề nhắc tới truyền thống hào hùng ngàn năm của Dân Tộc Việt Nam. Những tên tuổi quen thuộc đối với giới trẻ đương thời như Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh, Lý Thường Khiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung…, những địa danh như Mê Linh, Sông Hát, Bạch Đằng, Chi Lăng Đống Đa… mà Lưu Hữu Phước, Hoàng Quí, Thẩm Oánh, Lê Thương và nhiền nhạc sĩ thuộc thế hệ sau của ông trân trọng ngợi ca hoàn toàn không được nhắc tới trong bài hát này của ông. Tất cả đều phải chăng không cần thiết, nếu không nói là không được nói tới vì đoàn quân Việt Minh là đủ và là khởi đầu. Sau này, qua Đàn Chim Việt, Chiến Sĩ Việt Nam. Bắc Sơn, Làng Tôi, Sông Lô, Ngày Mùa, Tiến Về Hà Nội, Ca Ngợi Hồ Chủ Tịch, Không Quân Việt Nam, Hải Quân Việt Nam… các tên tuổi của Lịch Sử Việt Nam và các địa danh liên hệ, sau Thăng Long Hành Khúc, Gò Đống Đa hoàn toàn vắng bóng, nhường chỗ cho những tên lần đầu tiên xuất hiện như Đô Lương, Bắc Sơn, Thái Nguyên, Hồ Chủ Tịch, Già Hồ…

 Lưu Hữu Phước và Trúc Hồ hoàn toàn trái ngược với Văn Cao. Hai nhạc sĩ này đã lấy lịch sử của dân tộc làm khởi đầu và là nguồn căn bản cho những sáng tác của mình. Như đã nói ở trên, cuộc đời sáng tạo về âm nhạc của Lưu Hữu Phước bắt đầu bằng sự khám phá ra quá khứ của tổ tiên xa xưa nhất của ông, ngay từ ngày ông còn là học sinh ở Saigon, sau đó là khi ông cùng với các bạn sinh viên cùng quê hương Miền Nam với ông thăm viếng những di tích lịch sử ở miền Bắc, nơi phát xuất của dân tộc ông. Nói cách khác tất cả đdã khỏi đầu khi hồn thiêng của sông núi và anh linh của tổ tiên của dân tộc đã trỗi dậy trong lòng ông. Ba lời ca của Tiếng Gọi Sinh Viên sau này đã trở thành những bài học lịch sử mà không ít những người dạy lịch sử, văn hóa và đạo đức dân tộc cho tuổi trẻ Việt Nam ở Hải Ngoại đã dùng. Tất cả những tên tuổi lớn của nhiều ngàn năm của lịch sử dân tộc kể trên đều được trực tiếp hay gián tiếp làm sống lại trong những lời ca này, bên cạnh những danh xưng khác như Hồ Tây, Núí Lam…

Lịch sử Việt Nam và các tên tuổi lớn của quá khứ đấu tranh để bảo vệ đất nước, vinh quang và sự trường tồn của dân tộc cũng là nguồn cảm hứng mạnh mẽ và phong phú cho Trúc Hồ khi người nhạc sĩ trẻ tuổi của Cộng Đồng Việt Nam ở Hải Ngoại này làm những bài ca cho quê hương của mình, mà Đáp Lời Sông Núi chỉ là điển hình. Tất cả đã bắt đầu bởi hai tiếng Việt Nam. Phải dời Việt Nam ra đi từ thời còn nhỏ, sống xa lìa quê hương, xóm làng, cha mẹ, thày cô, bạn bè…hai tiếng Việt Nam đã trở thành một ám ảnh không dời đối với ông. Trong Đáp Lời Sông Núi, Việt Nam đã được ông nhắc tới bốn lần, một lần ở giữa bài và ba lần liên tiếp được lập lại để kế thúc. Tên Việt Nam cũng được ông dùng trong nhan đề của nhiều bài hát khác của ông như Một Ngày Việt Nam, Bước Chân Việt Nam, Con Đường Việt Nam  trong nội dung của phần lớn các bài hát của ông. Đối với ông cũng như đối với Trầm Tử Thiêng, Việt Dũng, Anh Bằng…, những đồng tác giả với ông cho nhiều bài hát, Việt Nam là hai tiếng thiêng liêng gắn liền với cuộc đời tị nạn của ông. Trúc Hồ đã gửi tới người hát, người nghe và có thể chính mình lời nhắn nhủ “dù nhục, dù vinh, xin hãy hát vang lời Việt Nam” để “Bạn hãy cùng tôi! Bước theo ngọn đuốc Việt Nam!”

Cuối cùng, qua Tiến Quân Ca, người ta thấy Văn Cao đã không mở ra được một viễn ảnh, không đem lại một ánh sáng mới, một chân trời mới cho những chiến sĩ của đoàn quân Việt Minh, chưa nói tới đồng bào đương thòi của họ, đất nước và dân tộc của họ. Ông chỉ kêu gọi họ “thề phanh thây uống máu quân thù”, “thắng gian lao”, “lập chiến khu” để rồi “tiến lên cùng thét lên!” vì “chí trai” là ở đó, “là đây nơi ước nguyền”. Cái đích cuối cùng mà ông vạch ra cho họ là ở đó, ước nguyền mà ông nó lên cho họ là ở đó, ở chiến khu để họ mãi mãi tiến lên cùng thét lên… Chấm hết! Tất nhiên là ở giai đoạn Văn Cao viết Tiến Quân Ca như một người nhìn từ bên ngoài và cho giai đoạn ông được yêu cầu sáng tác và sáng tác theo chỉ thị, ông không thể làm hơn được. Nhưng về sau này, vì bài hát đã trở thành quốc ca nên định mệnh của dân tộc cũng nằm ở đó, ở chiến khu, chiến khu từ sau khi nó trở thành quốc ca và cả nước trở thành chiến khu ngay từ cuối năm 1946, rồi liên tiếp sau nhiều thập niên tiếp theo, có thể luôn cả đến những ngày hiện tại, trong tương lai gần, khi người ta, một lần nữa, nói tới hiểm họa mất nước, hiểm họa đến từ ngoài khơi hay hiểm họa xảy ra ngay trên đất liền, cuối cùng vẫn chỉ là chiến khu, là nơi “chí trai” của người Việt đã “ước nguyền”, đến độ hậu duệ của ông, Trúc Hồ và Trầm Tử Thiêng phải lên tiếng thê thảm kêu than:

 Từng vòng tử sinh quay thấm thoát cũng vài ngàn năm.

 Nhiều lần nằm mơ, Ôi đất nước bao lần đổi mớí!

 Bằng cuộc bể dâu,

 Xương trắng vẫn cao nghệu thành non,

 Dòng máu vẫn tuôn trào thành sông.

 Chưa thấy bóng thanh bình một lần.

 

Lưu Hữu Phước và những đồng tác giả của ông hiền lành hơn, bình thường hơn, chỉ kêu gọi tập thể sinh viên “đứng lên đáp lời sông núi”, cùng nhau đồng lòng “mở đường khai lối” cho đồng bào , đừng quên khí phách của tiền nhân với ưóc mong một “ngày vẻ vang” sẽ đến để người nước Nam vang tiếng đến “muôn đời”. Ước vọng chung của họ là đất nước quang vinh và trường tồn. Sau nàỳ khi trở thành quốc ca, ước vọng này được nêu lên một cách rõ rệt hơn với hai câu ba và bốn được đổi thành

 

 “Vì tương lai quốc dân, cùng xông pha khói tên,

 Làm sao cho núi sông từ nay luôn vững bền.”

hầu làm cho

 “Vang tiếng người nước Nam cho đến muôn đời”

Ngoài ra một chi tiết ta không cũng nên bỏ sót là khi Tiếng Gọi Sinh Viên được đổi thành quốc ca, hai câu “Hồn thanh xuân như gương trong sáng, đừng tiếc máu nóng tài xin ráng!” đã được đổi thành “Dù cho phơi thây trên gươm giáo, thù nước lấy máu đào đem báo.” Qua hai câu được đổi thành này “thây” và “máu” đã được nói tới nhưng thây và máu ở đây không đồng nghĩa với thây và máu trong Tiến Quân Ca, không phải thây và máu của quân thù mà là thây và máu của chính người công dân đổ ra để bảo vệ quê hương, đất nước, để làm “tươi thắm cỏ hoa” trên cánh đồng chung của cả dân tộc, như Hùng Lân, một nhạc sĩ đồng thời với Văn Cao và Lưu Hữu Phước, đã viết trong Việt Nam Minh Châu Trời Đông của ông, “Non sông như gấm hoa uy linh một phương” và như lối nói bình thường trong ngôn ngữ quen thuộc của người Việt “đem máu xương xây đắp sơn hà” hay đem máu đào tô thắm non sông”…

Trong Đáp Lời Sông Núi, Trúc Hồ không nói lên ước vọng của mình cũng như ước vọng chung của cả dân tộc so với Lưu Hữu Phước trong Tiếng Gọi Sinh Viên. Điều này không có gì khó hiểu. Đáp Lời Sông Núi ở đây là lời kêu gọi khẩn cấp để đáp ứng cho một tình trạng khẩn cấp và kêu gọi từ Hải Ngoại trước nạn ngoại xâm mới xảy ra ở Biển Đông. Trong những bài hát khác, người nhạc sĩ thuộc thế hệ một rưỡi của Cộng Đồng Người Việt Di Tản đã nói lên ước vọng đó, ước vọng Tự Do, Công Bình, Nhân Ái, ước vọng nước Việt ngày mai ngời sáng. Điển hình là bài Thiên Thần Trong Bóng Tối mà người viết ghi nguyên văn dưới đây, thay cho phần kết luận:

Từ khi tôi chào đời, bập bẹ hai tiếng Việt Nam.
Yêu quê hương qua từng trang sách,
Hùng Vương, Phù Đổng rạng ngời.
Trải qua bao thời đại thăng trầm theo những buồn vui.
Quê hương sau ngày lửa khói, tự do hạnh phúc xa vời.

Bạn hãy cùng tôi, thắp lên ngọn đuốc Việt Nam!
Tình Yêu, Tự Do, Công lý, bình an hạnh phúc cho người!
Bạn hãy cùng tôi bước theo ngọn đuốc Việt Nam!
Niềm tin ngày mai tươi sáng, hiến dâng cuộc sống cho đời!

Những thiên thần trong bóng tối,
Mang ánh sáng vào nơi tối tăm,
Mang tình yêu xóa tan hận thù,
Mang tự do công bình nhân ái,
Cho Việt Nam ngày mai ngời sáng!

Phạm Cao Dương  

California, những ngày trở lạnh sau Tết Ma Quỷ 2011

 

Chú Thích

[1] “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước.” Ủy Ban Khoa Học Xã Hội Việt Nam, Viện Khảo Cỏ Học, Hùng Vương Dựng Nước.Tập IV. Hà Nội:Nhà Xuất Bản Khoa Học Xã Hội, 1974, Lời Mở Đầu, tr. 7.

[2] Trúc Hồ. Đáp Lời Sông Núi, CD . Garden Grove, CA: Asia Entertainment Inc, 2010. CD này gồm tổng cộng 14 ca khúc và Đáp Lòi Sông Núi là bài đầu tiên. Hầu hết những bài hay đoạn hát của Trúc Hồ được trích dẫn trong bài là lấy từ CD này.

[3] Lưu Hữu Phước. Âm Nhạc và Cuộc Sống.Saigon: Nhà Xuất Bản Thành Phố Hồ Chí Minh, 1988, tr. 14.

[4] – nt – , tr. 15-16.

[5] Bằng cớ là khi bài này được viết thì CD Hùng Ca Sử Việt cũng được Asia Entertainment phát hành (tháng 10 năm 2011) và đã được phổ biến mau chóng. Trong CD này Lưu Hữu Phước đã có ba bài là Hội Nghị Diên Hồng, Bạch Đằng Giang và Quốc Ca Việt Nam. Trong CD 15 Thanh Niên Hành Khúc do Phạm Hông Đảnh, một cựu giáo sư và cựu học sinh Trung Học Petrus Ký thực hiện (Sanata Ana, CA, 2001), Lưu Hữu Phước có bốn bài là Tiếng Gọi Sinh Viên, Thiếu Sinh Hành Khúc, Khúc Khải Hoàn, Lên Đàng; Hoàng Quý có ba bài là Tiếng Chim Gọi ĐànNước Non Lam Sơn, Bóng Cờ Lau; Hùng Lân có hai bài là Khoẻ Vì Nước, Cô Gái Việt trong số tổng cộng 16 bài.

[6] Lưu Hữu Phước, đã dẫn, tr. 20

[7] -nt-, tr.21. Nhiều ngưòi, kể cả người viết, cho đến khi bài này được viết cũng còn nhớ như vậy. Ngoài ra trong thời Chính Phủ Trần Trọng Kim với Luật Sư Phan Anh làm Bộ Trưởng Thanh Niên, các học sinh đã được dạy hát ba

bài này vói câu mở đầu là “Này thanh niên oi!” thay vì “Này sinh viên ơi!” thích hợp hơn. Cũng nên nhớ la trong thời này một trường huấn luyện thanh niên đã được thành lập ở Huế với danh xưng Trường Thanh Niên Tiền Tuyến, còn ở trong Nam thì tổ chúc Thanh Niên Tiền Phong cũng xuất hiện sau đó. TiếngGọi Thanh Niên đã trở thành đoàn ca của tổ chức này.

[8] Nguyễn Ngọc Huy. Quốc Kỳ và Quốc Ca Việt Nam. Garden Grove, CA: Blue Tech Copy and Technology, ? Tài liệu cấm bán, tr. 26-28. Nguyễn Tôn Hoàn. ‘Kỷ Niệm Thời Niên Thiếu, Trích Hồi Ký Nguyễn Tôn Hoàn”, trong Đặc San Áo Trắng, Xuân Quý Dậu 1993, tr. 19-20.

 Về lời ca bằng tiếng Pháp, Marche des Étudiants, vì Đại Học Hà Nội là đại học chung cho cả ba xứ Đông Dương, Việt, Mên, Lào nên lời ca là cho sinh viên của cả ba xứ, danh xưng Indochine đã được dùng ở đây. Nguyên văn như sau 

 Étudiants! Du sol l’appel tenace

 Pressant et fort, retentir dans l’espace.

 Des côtes d’Annam aux ruines d’Angkor,

À travers les monts, du Sud jusqu’au Nord,

Une voix monte ravie:

Servir la chère Patrie

Toujours sans reproche et sans peur

Pour rendre l’avenir meilleur.

La joie, la ferveur, la jeunesse

Sont pleines de fermes promesses

 Refrain: 

 

Te servir chère Indochine

 Avec coeur et discipline

 C’est notre but, c’est notre loi

Que rien n’ébranle notre foi.

[9] Nguyễn Ngọc Huy, –nt-, tr. 28. Nguyễn Tôn Hoàn, -nt-, tr. 19.

[10] Phạm Cao Dương truyện trò riêng với Trúc Hồ, tháng 10 và 11 năm 2011.

[11]  -nt-

[12] Đó là vụ ông ám sát Đỗ Đức Phin, một nhân vật bị coi là thân Nhật thời bấy giờ. Sự kiện này đã được Vũ Trọng Khánh, nguyên thị trưởng (Đốc Lý) Hải Phòng thời Chính Phủ Trần Trọng Kim và Bộ Trưởng Tư Pháp trong Chính Phủ Lâm Thời Hồ Chí Minh, nhắc tới trong hồi ký của ông. Vũ Trọng Khánh, “Tôi Làm Thị Trưởng Hải Phòng” (Trích Hồi Ký Vũ Trọng Khánh), trong Vũ Đình Hoè, Thanh Nghi, Hồi Ký. Hà Nội: Nhà Xuất Bản Văn Học, tr. 501. Nơi xảy ra vụ ám sát là một tiệm hút và được Vũ Bằng kể lại nguyên văn như sau:

 “Ngay sau đó vài ngày, ai cũng nói là Văn Cao là người đã bắn chết Phin. Theo lời thuật lại của các anh em ‘tự nhận là biết rõ hết cả đầu đuôi chi tiết vụ này’, Văn Cao lúc đó đã bí mật hoạt động cho Việt Minh vào tiệm hút của Phin từ lâu và đã nghiên cứu rất kỹ càng giờ giấc và thói quen của Đỗ Đức Phin là như thế nào. Lúc ấy Phin bị coi là làm mật thám cho phát xít Nhật. Hôm xảy ra vụ ám sát, Văn Cao nằm một cái giường ngay sát giường của Phin. Đợi Phin hút xong xuôi rồi, nằm lơ mơ, Văn Cao gọi: “Phin ơi’, Phin quay lại xem có gì xảy ra thì Văn Cao nói tiếp: ‘Phin ơi, tao giết mày’. Bắn xong, Văn Cao đứng dậy đi ra, nhảy lên một chiếc xe đạp đi thong thả một chút rồi ở trong tiệm người ta mới hô hoán Phin bị bắn.

 “Một vài người khác, cũng là dân hút và cũng ở Hải Phòng lúc đó, lại nói khác đi một chút. Theo họ, Văn Cao không nằm hút ở giường cạnh Phin. Người nằm ở sau Phin tên là L., con một ông thư ký bưu điện. Phin hút xong, ngồi dậy ăn cái bánh xong nằm hút thì từ cầu thang Văn Cao và một thanh niên nữa bước lên đứng chắn lối đi. L. đương nằm ngồi dậy chuẩn bị, đồng thời từ trên mái nhà có hai người nữa leo ống máng xuống đứng dự kiến và phòng ngừa những bất trắc xảy ra. Văn Cao rút lấy bản ‘cáo trạng’ đọc cho Phin nghe, kết tội Việt gian của Phin. Xong xuôi, L. bắn hai phát, Phin chết liền tại chỗ’

 “Về cái chết của Phin, ngay hồi đó có hai giả thuyết như vậy về Văn Cao. Tuy nhiên, dù L. bắn hay Văn Cao bắn, ai cũng yên trí là Văn Cao đã thủ vai chính trong vụ này. Cái tên Văn Cao nổi bật lên từ đó. Đối với các anh em văn nghệ, và một số anh em nói cho đúng, đã lấy làm hãnh diện về điểm đó.

 “Sau ngày 19/8 tiếng Văn Cao nổi như cồn.”

 Vũ Bằng, “Văn Cao – Một Nghệ Sĩ Tài Hoa”, trong Văn Cao: Cuộc Đời và Tác Phẩm”, đã dẫn, tr. 178-179.

 Nguyễn Thụy Kha, trong bài “Văn Cao, Người Viết Quốc Ca”, cũng in trong Văn Cao: Cuộc Đời và Tác Phẩm kể trên, viết vào mùa Xuân năm 1995, không ghi rõ nguồn gốc, đã viết như sau:

 “Đêm cuối xuân 1945. Gió rét. Hải Phòng chìm trong bóng tối. Một thanh niên nhỏ nhắn lạ mặt xuất hiện ở ‘vườn hoa đưa ngưòi’. Không ai biết đấy là Văn Cao. Cải trang từ Hà Nội, khi về Hải Phòng ập vào nhà Doãn Tòng, không ai nhận ra Văn Cao. Đêm nay, vẫn hình thù ấy, mặt mũi ấy, Văn Cao đến ‘vườn hoa đưa người’ trong ngực giấu một khẩu Côn to và một khẩu Brao-ninh nhỏ xíu. Khẩu Côn to là của Nguyễn Đình Thi giao cho, khẩu Brao-ninh thì do một nhà tư sản có cảm tình với cách mạng dự trữ.

 “Văn Cao ngồi xuống ghế đá. Đêm nay là đêm quyết định số phận tên Việt gian thân Nhật Đỗ Đức Phin. Ngưuời liên lạc chua tới. Phải gặp anh mới biết Đỗ Đức Phin đêm nay ở đâu. Người liên lạc là Trần Khánh, chú bé có giọng hát tuyệt hảo đã từng hát bao nhiêu bài của Văn Cao. Trần Khánh là em ruột Trần Liễn, bạn cùng tiểu học với Văn Cao. Văn Cao chợt mỉm cười một mình….”, tr. 403.

 “Hồi ấy, sau khi bắn chết Đỗ Đúc Phin, Văn Cao phóng xe về nhà Doãn Tòng rồi cải trang ra đi truớc khi thành phố thiết quân luật. Đời người thanh niên vũ trang đi từ (?) sang cuộc ám sát khác. Sau đấy bắt trượt Cung Đình Vận ở gần rạp hát cuối phố Huế. Rồi lại sau đó…”, tr. 404

 Ba chấm lửng của Nguyễn Thụy Kha khiến người đọc không khỏi không nghĩ tới những cuộc ám sát giết người khác mà Văn Cao đã thực hiện hay dự phần.

 Về khẩu Côn mà Văn Cao sử dụng thì chính Nguyễn Đình Thi đã xác nhận . Nhà văn này kể: “Một buổi chiều, người bạn làm liên lạc đã đưa tôi đến nơi Văn Cao ở tạm, trên một căn gác nhỏ, nghèo, gần ngã tư đầu Khâm Thiên. Trong bóng tối chạng vạng, chúng tôi thấy nhau cùng đói dài, gầy guộc, đen xạm. Chúng tôi chụm đầu lầm rầm bàn những công việc mới gấp rút. Tôi đưa Văn Cao một khẩu súng lục mà tôi vùa được một anh em cảm tình ủng hộ cho, tôi biết ngoài việc làm báo anh còn ở trong ‘Đội Danh Dự’ Việt Minh.” Nguyễn Đình Thi, “Chào Anh Đi Xa!”, trong Văn Cao: Cuộc Đời Và Tác Phẩm, đã dẫn, tr. 296-297.

[13] Văn Cao. “Tôi viết Tiến Quân Ca”, trong Một Chặng Đường Văn Hóa, Tập Hồi Ức và Tư Liệu về Đề Cương Văn Hóa Của Đảng và Đời Sống Tư Tưởng Văn Nghệ, 1943-1948, tr. 109-110. Văn Cao. “Tại Sao Tôi Viết Tiến Quân Ca”, trong Văn Cao: Cuộc Đời Và Tác Phẩm. Hà Nội; Nhà Xuất Bản Văn Học, 1998, tr. 86-92.

[14] -nt-

[15] -nt-

[16] -nt-, tr. 110-111

[17] Ngô Vĩnh Bình. “Nhà văn Nguyễn Đình Thi Nhớ Lại Không Khí Ra Đời Bài Hát Diệt Phát Xít”, trong  Một Chặng Đường Văn Hóa, đã dẫn, tr. 108.

[18] Theo Phí Văn Bái thì vào lú đó Vũ Quí là quyền Bí Thư Thành Ủy Hà Nội của Thanh Niên Cứu Quốc thuộc mặt Trận Việt Minh và Ủy Viên Ban Cán Sự Thành Ủy Hà Nội của Việt Minh, còn Lê Quang Đạo Bí Thư Ban Cán Sự

[19] Nguyễn Thụy Kha. “Văn Cao Vui Và Buồn Sang Tuổi Cổ Lai Hy”, trong Văn Cao, Cuộc Đời Và tác Phẩm, đã dẫn, tr. 423-429. Bài phỏng vấn do Nguyễn Thụy Kha ghi đề ngày 7 tháng 10 năm 1991.

[20] Nguyên văn toàn thể bài nhái như sau:

 Đoàn quân Việt Mình đi, xe nhà Phất phới.

 Dắt họ hang làng nước ra làm quan.

 Cùng chung sức phá két xây nhà mới

 Đứng đều lên may vá cho thật sang.

 Từ bao lâu ta nuốt cơn thèm.

 Võ trang đâu lên đường! Hỡi ai, long chớ quên,

 Bắc Sơn cùng Đô Lương, Thái Nguyên.

 

 Ngoài ra khi quân Tàu của Tưởng Giới Thạch kéo sang để tước khí giới của quân đội Nhật , một bài hát nhái khác cũng được đặt ra, nguyên văn như sau:

 

 Đoàn quân Tàu Ô đi, sao mà ốm thế!

 Bước chân phù lang thang trên nước Việt Nam.

 Cờ sao trắng rách nát như tầu lá.

 Đứa nào sang không ốn cũng què lê…

[21] Nguyễn Ngọc Huy, đã dẫn, tr.26-27, Nguyễn Tôn Hoàn, đã dẫn. tr. 23-24.

[22] Nguyễn Tôn Hoàn, tr. 19.

[23] Nguyễn Ngọc Huy, mặt bìa sau.

[24] “Tiến Quân Ca”trong Văn Cao, Cuộc Đời và Tác Phẩm, đã dẫn, tr.111-112.

[25] Phí Văn Bái, đã dẫn, tr. 171.

[26] Nguyễn Thụy Kha, “Văn Cao, Người Viết Quốc ca”, trong Văn Cao, Cuộc Đời và Tác Phẩm, đã dẫn, tr. 406-407.

[27] Nguyễn Đình Thi, “Chào Anh Đi Xa!”, trong Văn Cao, -nt-, 298.

[28] Nguyễn Trọng tạo, “Ba Biến Khúc Của Văn Cao”, trong Văn Cao, -nt-, tr. 279.

[29] Văn Cao, “Tôi Viết Tiên Quân Ca”, trong Một Chặng Đường Văn Hóa, đã dẫn, tr. 110 và trong Văn Cao: Cuộc Đời Và Tác Phẩm, tr.88.